Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần 99
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Minh Tiến
Giảo chánh & nhuận văn: Huệ
Trang, Đức Phong và Như Ḥa
Tập 197
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Kinh Giải, trang thứ hai trăm ba mươi ba, hàng thứ
bảy, xem từ chữ “súc
sanh”.
“Súc sanh, tân dịch vi bàng sanh, chỉ
bàng hành chi sanh loại. Tân Tỳ Bà Sa Luận vân: Kỳ h́nh
bàng, cố hành diệc bàng, dĩ hành bàng, cố h́nh diệc
bàng. Thị cố danh bàng sanh. Bàng giả, hoành dă” (Chữ “súc sanh” tân dịch[1] là
“bàng sanh”, ngụ ư: Các loài sanh vật có thân h́nh nằm ngang.
Tân Bà Sa Luận nói: “Do thân h́nh chúng nằm ngang nên cũng
đi ngang. Hoặc do đi ngang, nên thân h́nh cũng nằm
ngang”. V́ vậy, chúng được gọi là “bàng sanh”.
“Bàng” có nghĩa là nằm ngang).
Nói đơn giản th́ có nghĩa là: Bàng (傍) là bất chánh; tâm
không chánh trực th́ kẻ đó hành xử bất chánh, cho
nên đọa vào loài súc sanh. Tâm hạnh đoan chánh, sẽ
sanh trong cơi trời và cơi người. Tâm hạnh bất
chánh, sẽ đọa vào cơi súc sanh. Trong những kẻ tạo
tội Ngũ Nghịch Thập Ác, đây là những kẻ
tạo tội nhẹ nhất, nhẹ hơn kẻ [tạo
tội] đọa ngạ quỷ, nên mới xếp sau ngạ
quỷ. Trong kinh văn, [có trích dẫn lời] Tân Tỳ Bà
Sa Luận[2] nói rất hay: H́nh trạng
của chúng, “h́nh” (形) là nói đến
h́nh trạng, h́nh trạng của chúng (súc sanh) chẳng chánh
đáng. Trong kinh giáo và trong giáo huấn của thánh nhân đều
nhắc tới oai nghi của chư thiên, súc sanh đạo
và ngạ quỷ đạo không có oai nghi. Nói thông tục một
chút, oai nghi thuộc về lễ tiết, bọn chúng (súc
sanh và ngạ quỷ) không hiểu lễ tiết. Nếu
con người thiếu lễ độ, không hiểu lễ
tiết, chẳng có tâm yêu thương, không có [ư niệm]
“suy từ ḿnh mà nghĩ đến người khác”, th́ gọi
là “tâm hạnh không đoan chánh”. Trong “tham, sân, si”, không
đoan chánh thuộc về ngu si; do đó, ngu si chiêu cảm
cơi súc sanh. Đó là nghiệp nhân của súc sanh. Tâm hạnh lệch
lạc, tà vạy, tà tri, tà kiến, chúng ta thường nói
là “làm xằng, làm quấy”; đó là nghiệp nhân của súc
sanh. Tiếp đó nói tới hành vi, hành vi của chúng
cũng không đoan chánh. Do tâm hạnh bất chánh, nên hành vi
bất chánh, nên gọi là “bàng sanh”.
Sách Hội Sớ nói: “Thử đạo biến tại
chư xứ, phi mao, đới giác, lân giáp, vũ mao, tứ
túc, đa túc, hữu túc, vô túc” (Loài này có mặt khắp
nơi, đeo lông, đội sừng, vảy, mai, lông mao,
lông vũ, bốn chân, nhiều chân, có chân, không chân), đây
là nói h́nh dáng của loài súc sanh, chúng nó sống ở đâu?
Khắp nơi đều có thể trông thấy chúng, dưới
nước, trên mặt đất, bay trên không trung, đều
có thể trông thấy. “Đeo
lông, đội sừng” là loài thú. Loài có vảy, có mai là
loài sống dưới nước; Trên
mặt đất cũng có loài có mai, có vảy (thí dụ
như rùa, rắn). Loài có lông mao, lông vũ là loài chim bay trên
không trung. Loài có bốn chân, loài có nhiều chân đều là
những loài chúng ta thường thấy; c̣n có loài không chân,
có loài có chân, [thí dụ như] rắn là loài không chân. Trong
loài rắn, có rất nhiều loại khác nhau. Do đó, “thủy, lục, không hành, hỗ
tương thôn đạm, thọ khổ vô lượng” (sống
dưới nước, trên mặt đất, bay trên không,
ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô lượng). Sách Phụ Hoằng Kư[3]
nói: “Tác trung phẩm Ngũ Nghịch
Thập Ác giả cảm chi” (tạo Ngũ Nghịch Thập
Ác bậc trung cảm lấy quả này). Trong phần
trước, chúng tôi đă có nói: Loài súc sanh đáng lẽ xếp
vào [kẻ tạo tội Thập Ác] hạ phẩm, có lẽ
sách đă viết sai ở chỗ này. Sách xếp ngạ quỷ
vào hạ phẩm, xếp súc sanh vào trung phẩm. Tạo tội
Ngũ Nghịch Thập Ác cảm lấy quả báo này, tội
của kẻ đọa súc sanh nhẹ hơn kẻ đọa
ngạ quỷ. Trong cái nhân, tuy không có tâm hại chúng sanh,
nhưng tâm hạnh của họ bất thiện, nên cảm
quả báo như vậy.
Đoạn kế tiếp đặc
biệt giới thiệu Diêm La Vương Giới, chúng ta
thường gọi là vua Diêm La. Đây là điện thứ
năm trong Thập Điện Diêm Vương, tức
Ngũ Điện Diêm La Vương. Ngài cai quản địa
ngục, nên đặc biệt giới thiệu Ngài ở
đây. “Diễm Ma La Giới giả,
chỉ Diễm Ma La Vương chi thế giới” (Diễm
Ma La Giới là chỉ thế giới của vua Diễm Ma
La - Yamaraja). Chúng ta nên biết: Bất luận cơi nào trong lục
đạo, chúng ta đều đă từng sanh trong đó.
Lại c̣n chắc chắn là không phải chỉ một lần,
mà là rất nhiều lần; đời này sanh trong cơi
người, vừa đầu thai làm người liền
quên tuốt những chuyện đời trước. Nếu
có thể biết chuyện đời trước, đời
này chúng ta sẽ không làm chuyện xấu ác nữa. V́ sao?
Đă chịu khổ đau quá nhiều! V́ mê hoặc, v́ mê
khi cách ấm, “cách ấm” (隔陰) là sanh tử. Lúc chết
đau khổ, mà lúc sanh ra cũng khổ. Sự khổ
đau kịch liệt ấy khiến cho chúng ta mất trí
nhớ, chẳng thể nhớ chuyện đời trước.
Nhưng hiện thời người ngoại quốc lẫn
người Trung Quốc cũng có một phương pháp,
dùng thuật thôi miên có thể khiến cho người ta nhớ
lại đời trước. Đây là dùng sức của
con người để giúp đỡ, chẳng phải
là Phật, Bồ Tát gia tŕ, cũng chẳng phải là quỷ
thần gia tŕ, mà do sức người giúp đỡ, nên
quư vị có thể nhớ lại chuyện đời quá
khứ, có thể thuật lại những chuyện đời
trước. Cảnh giới trong lúc bị thôi miên giống
như nằm mộng, nhưng không phải là mộng, kể
lại rất rơ ràng, họ dùng máy thâu âm thu lại những
chuyện ấy, đợi khi quư vị tỉnh lại,
cho quư vị nghe lời chính ḿnh đă nói trong lúc bị thôi
miên, nói chuyện một đời trước, hai đời,
ba đời, bốn đời trước. Chúng tôi đă
nghe báo cáo một bà được thôi miên có thể nhớ
lại chuyện mấy chục đời về trước,
hơn bốn ngàn năm về trước, muốn nhớ
chuyện bảy chục, tám chục đời trước
đúng là chẳng dễ! Những chuyện thôi miên sâu
như vậy tương đối rất ít gặp,
nhưng đôi lúc cũng có, đều là tùy thuộc duyên
phận!
Tiếp đó, sách giới thiệu
“Diễm Ma La, hựu tác Viêm Ma”
(Diễm Ma La c̣n được phiên âm là Viêm Ma). Mấy danh xưng [được
liệt kê] kế tiếp cho đến “Diêm Ma La v.v…”, đều là các cách phiên âm khác nhau,
nhưng đều có cùng một nghĩa. Chữ này có
nghĩa là “dịch vi Phược,
phược tội nhân chi nghĩa” (dịch là Phược,
nghĩa là trói buộc tội nhân), giống như dùng dây thừng trói tội nhân lại,
có ư nghĩa như vậy. “Diễm
Ma La Vương, nghĩa dịch vi B́nh Đẳng
Vương” (Diễm Ma La Vương dịch nghĩa là
B́nh Đẳng Vương). Đây
là Ngũ Điện Diêm Vương, tức B́nh Đẳng
Vương, Diêm La có nghĩa là B́nh Đẳng. “Thử vương đăng lục”
(Vị vua này ghi chép, [xử đoán]), những tư tưởng,
lời nói, hành động thiện hay ác của chúng sanh
trên thế gian này đều được ghi chép lại.
Sau khi [người đó] đă chết, Ngài sẽ dựa
trên tâm hạnh thiện hay bất thiện của kẻ
đó để phán xử. Thiện có thiện quả, ác
có ác báo, nên nói “trị lư thế
gian sanh tử tội phước chi nghiệp” ([vua Diêm
La] quản trị cai quản cái nghiệp sanh tử, tội
phước của thế gian),
Ngài cai quản chuyện này. Ngài rất công bằng, chẳng
xử oan quư vị, nhất định dựa trên tâm hạnh
trước kia của quư vị để phán xử. Quư vị
có thiện hạnh, Ngài sẽ đưa quư vị đến
cơi trời. Cơi trời có rất nhiều tầng, [tùy thuộc]
thiện hạnh của quư vị to hay nhỏ, sẽ
được đưa đến tầng trời thích hợp.
Nếu quư vị tạo tội nghiệp, phạm lầm lỗi,
tội cũng có các mức độ khác nhau, phải
đáng nên đọa trong địa ngục nào? Nói thật
ra, đó là để tiêu nghiệp cho quư vị. Cơi trời
để tiêu thiện nghiệp, tạo thiện nghiệp
sẽ hưởng phước, cho quư vị hưởng
phước để tiêu thiện nghiệp. Cơi địa
ngục là nơi hứng chịu khổ báo, [thọ khổ]
sẽ tiêu ác nghiệp. Do vậy, chúng ta thật sự hiểu
rơ sự việc trong lục đạo rốt cuộc là
như thế nào. [Chúng ta phải] đừng tạo nghiệp!
Chẳng tạo nghiệp sẽ không thọ quả báo,
như vậy th́ mới tốt. Không tạo nghiệp th́
đi đâu? Không tạo nghiệp sẽ vượt thoát lục
đạo.
Do đó, ở đây, chúng ta có thể
hiểu lục đạo là ǵ? Trong lục đạo,
đă tạo nghiệp trong cơi người, bèn sanh trong tam
thiện đạo và tam ác đạo để tiêu nghiệp.
Trong khi tiêu nghiệp, lại tạo thêm nghiệp mới,
đặc biệt là ở cơi người, cơi người
là cơi thiện, vừa tiêu nghiệp lại tạo nghiệp;
cơi trời tiêu nghiệp nhiều, tạo nghiệp ít; cơi
súc sanh, ngạ quỷ tiêu ác nghiệp nhiều, tạo nghiệp
cũng ít; cơi địa ngục hoàn toàn tiêu nghiệp, chẳng
tạo nghiệp. Do đó, sau khi tiêu nghiệp xong, họ
sanh trở lại trong nhân gian. Khi đó, nếu gặp thiện
tri thức, nếu họ may mắn gặp Tịnh Tông, sẽ
có thể vượt thoát lục đạo, vượt
thoát mười pháp giới, cơ duyên này vô cùng khó có. Ai có
thể gặp được? Nay chúng ta đă gặp
được, phải biết đó là chuyện may mắn
khôn sánh! Thân người khó được, chúng ta đă
được làm thân người; Phật pháp khó
được nghe, chúng ta đă được nghe Phật
pháp; đặc biệt là pháp môn thù thắng khôn sánh trong Phật
pháp, chúng ta đă được gặp. Đă gặp mà c̣n
làm những chuyện để bị kẹt lại trong lục
đạo hay sao? Ở đây, chỉ nói sơ lược
trạng huống trong lục đạo mà thôi, nếu nói cặn
kẽ sẽ nói không hết. Chúng tôi có soạn một cuốn
sách mang tựa đề là Chư Kinh Phật Thuyết
Địa Ngục Tập Yếu. Nếu giảng kỹ
cuốn kinh ấy từ đầu tới cuối phải
mất mấy năm, sẽ là một khóa học rất
dài. Học xong, sẽ có lợi ích to lớn. Lợi ích ấy
chính là chẳng dám khởi ác niệm nữa. Ác niệm c̣n
không dám khởi, đương nhiên sẽ không dám tạo
ác nghiệp, chắc chắn như vậy. Quư vị sẽ
mong vượt thoát luân hồi, mong vượt thoát mười
pháp giới. Trong mười pháp giới, lục đạo
khổ lắm, lục đạo là uế độ. Tối
thiểu cũng phải sanh trong tứ thánh pháp giới,
đó là Tịnh Độ trong thế gian. Trong đó, có tạo
nghiệp hay không? Chỉ tạo nghiệp nhẹ! Chẳng
ở trong lục đạo nữa, vĩnh viễn thoát khỏi
lục đạo. Con người chẳng thể không giác
ngộ!
Vua Diêm La cai quản nghiệp sanh
tử tội phước của thế gian, “chủ thủ địa ngục,
bát hàn, bát nhiệt, cập kỳ quyến thuộc chư
tiểu ngục đẳng” (làm chúa địa ngục,
tám ngục nóng, tám ngục lạnh và các tiểu địa
ngục quyến thuộc v.v…). Trong phần trước,
chúng ta đă đọc thấy những nơi ấy đều
do Ngài cai quản. Tám đại địa ngục nóng, tám
địa ngục lạnh, tiểu địa ngục, kể
cả mười sáu du tằng địa ngục, c̣n có cô
độc địa ngục, đều do Ngài cai quản.
“Quyết đoán thiện ác, dịch
sử quỷ tốt, ư ngũ thú trung, truy nhiếp tội
nhân, chúy khảo trị phạt, cánh vô hưu tức”
(quyết đoán thiện ác, sai sử quỷ tốt truy bắt
tội nhân trong năm đường, tra khảo, trừng
phạt chẳng lúc nào ngơi), mấy câu này nói về chức
trách của vua Diêm La. V́ vậy, quỷ thần, [tức là]
những vị thần trong quỷ đạo đều
công bằng, chánh trực. Tại sao lại đến làm
thần trong quỷ đạo? Họ có duyên với cơi quỷ.
Phật chẳng độ chúng sanh thiếu duyên! Cùng một
đạo lư, bất cứ một người nào trong lục
đạo nếu không có duyên, dẫu ở ngay trước
mặt cũng không gặp gỡ. V́ vậy, duyên rất
quan trọng. Nhà Phật nói nhân, duyên, và quả, đặc
biệt xem trọng duyên; nhà Phật chẳng nói Nhân Sanh, mà
nói Duyên Sanh, trong đó có đạo lư sâu xa. Nói tới Nhân
th́ trong A Lại Da Thức của mỗi chúng sanh đều
có đầy đủ hạt giống (chủng tử) của
các pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp nào dấy
lên hiện hành cũng đều phải nhờ vào duyên. Nếu
không có duyên, tuy có hạt giống, vẫn chẳng thể dấy
lên hiện hành.
Bồ Tát hiểu đạo lư
này; do vậy, phàm những duyên bất thiện, họ sẽ
xa ĺa, nên quả báo bất thiện vĩnh viễn chẳng
hiện hành. Chúng ta đă hiểu, bèn có thể học theo Bồ
Tát. Từ vô thỉ kiếp trong quá khứ, chúng ta đă tạo
rất nhiều nhân ác, đời này khi chưa gặp Phật
pháp, cũng tạo không ít nhân ác, có thể nào chẳng có quả
báo ư? Không thể nào! Có nghiệp nhân bèn nhất định
có nghiệp báo. Muốn những nhân ác ấy chẳng khởi
quả ác, biện pháp duy nhất là chúng ta không tạo duyên
ác, xa ĺa duyên ác. [Được như vậy th́] hạt giống
ác sẽ không thể hiện hành. Vậy th́ chúng ta tạo
ǵ? Nay tôi nghĩ mỗi vị đồng học đều
biết: Chúng ta phải tạo duyên A Di Đà Phật. Trong
A Lại Da Thức của chúng ta có nhân của A Di Đà Phật,
nay dốc hết tâm lực để tạo duyên A Di
Đà Phật, tạo duyên ấy ra sao? Đại Thế
Chí Bồ Tát đă dạy: “Nhớ Phật, niệm Phật,
hiện tiền, tương lai nhất định thấy
Phật”. Thấy Phật là quả, c̣n nhân là hai câu đầu:
“Nhớ Phật, niệm Phật”.
“Nhớ Phật” là tâm
thường nghĩ tới A Di Đà Phật, [“niệm Phật” là] miệng
thường niệm A Di Đà Phật. “Nhớ Phật,
niệm Phật” là nhân, “nhất định thấy
Phật” là quả. Lời này vô cùng khẳng định,
khiến cho người nghe chẳng có mảy may nghi ngờ,
đó là thật, chẳng giả.
Trong thời gian gần đây,
chúng ta thường nghe nói tai nạn rất nhiều. Lúc
trước, nói thật ra, một năm trước, chẳng
lâu lắm, trong nhiều trường hợp, chúng tôi chẳng
nghe có ai nói đến về tai nạn, nhưng nội
trong năm nay, h́nh như đây là một chủ đề
thường được đưa ra để bàn luận.
Chúng ta hăy suy nghĩ cặn kẽ, ngày càng cảm thấy mức
độ nghiêm trọng của vấn đề này. Tai nạn
do đâu mà có? Đức Phật biết, đệ tử
Phật chúng ta biết. Đức Phật biết là do Ngài
có công phu định lực, có trí huệ. Chúng ta biết là
nhờ Phật dạy. Trong kinh, đức Phật thường
nói, chúng ta nghe đức Phật dạy mới biết.
Đức Phật dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Kinh Hoa Nghiêm nói hết thảy các pháp
đều do “duy tâm hiện, duy thức biến”. Chữ
Tâm và Thức trong câu ấy đều có nghĩa là “tâm”. Tâm
là chân tâm, Thức là vọng tâm. Vọng tâm chẳng ĺa chân
tâm. Nói tóm lại, hết thảy các pháp chẳng ĺa Tâm. V́
sao tâm biến thành hết thảy các pháp? Tâm động liền
biến thành hết thảy các pháp, tâm không động th́ hết
thảy các pháp đều chẳng c̣n. Chữ “động” này là “ba động” (波動, dao động).
Các khoa học gia hiện thời cũng đă chứng minh
vạn sự vạn vật trong vũ trụ thật ra
đều là các hiện tượng dao động. Do
đó, khoa học đề ra một lư luận “dây
đàn”, giống như các nhạc khí thuộc bộ dây, họ
nêu ra lư luận về hiện tượng dao động.
Hiện thời, tai nạn
đang xảy đến. Tai nạn biến hiện
như thế nào? Nhất định là do dao động bất
thường, chẳng b́nh thường, cũng có thể
nói là một thứ dao động trái nghịch lẽ
thường. Dao động b́nh thường sẽ
tương ứng với Tánh Đức. Dao động bất
thường bèn trái nghịch với Tánh Đức. Do vậy,
ngay cả các nhà khoa học cũng bảo những tiên
đoán về năm 2012 chẳng đáng sợ…. Họ nói
[tai nạn ấy] đáng lư là một lời cảnh giác
cao độ đối với toàn thể nhân loại trên
địa cầu, là một cơ hội tốt để
[con người] sửa đổi chính ḿnh. Sửa bằng
cách nào? Phải đoạn ác tu thiện, phải cải tà
quy chánh, phải đoan chánh thân tâm, [được như
vậy th́] nhân loại sẽ đưa địa cầu
này tiến tới một cảnh giới tốt đẹp
hơn. Đó là chuyện tốt đẹp, nói rất có
lư, giống như cách nói của Phật pháp. Nếu không sửa
đổi, phiền phức sẽ xảy đến, tai nạn
ngày càng nghiêm trọng. Ư niệm nào là ư niệm tốt nhất?
Hiện thời, các vị đồng học đều biết:
Đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ là ư niệm tốt
nhất, “nhớ Phật, niệm
Phật” là ư niệm tốt nhất, mọi người
chúng ta cùng chia sẻ, báo cáo tâm đắc khi học kinh Vô
Lượng Thọ là ư niệm tốt nhất. Mật
độ tai nạn đúng là ngày càng nhiều, ngày càng
nghiêm trọng, chúng tôi nỗ lực báo cáo tâm đắc khi
học tập bộ kinh này với mọi người,
chia sẻ cùng mọi người. Tôi hy vọng tới
tháng Sáu hoặc tháng Bảy năm sau sẽ giảng hoàn tất
kinh này. V́ thế, mỗi ngày phải giảng thêm hai tiếng
đồng hồ, mỗi ngày giảng bốn tiếng
đồng hồ chắc sẽ giảng hết, đây là
việc cần thiết phải làm. Đối với tuổi
tác của tôi hiện thời, giảng bốn giờ chẳng
thành vấn đề, phải giảm bớt việc thù tạc,
hy vọng quư vị nghe kinh nhiều hơn, tụng kinh nhiều
hơn, bớt đến thăm tôi. Đến thăm tôi
th́ sao? Tôi mệt, mà quư vị cũng mệt, hai bên đều
mệt. Có thêm một chút giờ giấc để nghỉ
ngơi, dưỡng thần; nghe kinh nhiều hơn, niệm
Phật nhiều hơn th́ mới nên, như vậy th́ chúng
ta mới là thật sự chăm sóc, thật sự quan
tâm, hỗ trợ hợp tác lẫn nhau.
Tiếp đó, lăo cư sĩ trích
một câu trong kinh Tam Khải, “Cố
Tam Khải Kinh vân: - Tương phó Diễm Ma vương, tùy
nghiệp nhi thọ báo. Thắng nhân sanh thiện đạo,
ác nghiệp đọa Nê Lê” (V́
vậy, kinh Tam Khải[4] nói: “Giao cho vua Diễm Ma, theo nghiệp mà thọ báo. Nhân thù
thắng th́ sanh vào đường lành, ác nghiệp đọa
Nê Lê”). Chúng ta phải ghi nhớ bài kệ này. “Tương phó Diễm Ma
vương” tức là dắt người tạo tội
đi, dắt tới đâu? Dắt tới chỗ vua Diêm
La, cho vua Diêm La trị tội và phán xét kẻ đó. Nếu
họ có thiện tâm, thiện hạnh, vua Diêm La sẽ
đưa họ đến cơi lành, trong Phật pháp gọi
[các cơi lành ấy] là ba thiện đạo. Nếu tâm hạnh
của họ đều chẳng thiện, sẽ
đưa họ đến địa ngục. Bốn câu
kệ này chẳng phải nhằm dọa dẫm người
khác, mà là sự thật, chúng ta chớ nên xem thường
nó. Bốn câu kệ ấy nói rơ sự nghiệp của vua
Diêm La, đây là sự nghiệp của Ngài. Kế tiếp
là giới thiệu kèm thêm: “Hựu
dịch Song Vương” ([Diêm Ma Vương] c̣n
được dịch là Song Vương), “dịch” (譯) là phiên dịch, vua Diêm La c̣n được dịch
thành Song Vương, v́ sao? “Huynh
cập muội giai tác địa ngục vương, huynh
trị nam sự, muội lư nữ sự, cố viết
Song Vương” (v́ anh và em gái cùng làm vua địa ngục.
Anh xem đàn ông, em xem đàn bà, nên gọi là Song
Vương), kinh Phật có
nói như vậy. Nam hay nữ đều là vua Diễm Ma,
đều là b́nh đẳng, đâu có nói nam nữ không b́nh
đẳng! Đây là nam nữ b́nh đẳng, thật sự
b́nh đẳng. Vua Diêm La nam th́ xem đàn ông, nữ th́ xem
đàn bà, nên gọi là Song Vương.
“Diễm Ma La giới giả, tức thử
vương chi quản giới” (Diễm
Ma La Giới là cơi vua Diêm La cai quản). Chữ “giới” (界) có nghĩa là phạm vi, là phạm vi cai quản của
họ. Luận Câu Xá chép: “Diễm
Ma vương quốc, ư thử Thiệm Bộ châu hạ,
quá ngũ bách du-thiện-na” (Cơi nước vua Diễm
Ma: Ở phía dưới Thiệm Bộ châu chừng năm
trăm du-thiện-na), du-thiện-na
(yojana) tức là do-tuần,
hơn năm trăm do-tuần “hựu
Diễm Ma vương quốc, tung quảng lượng diệc
nhĩ, tùng thử triển chuyển, tán cư dư xứ”
(có vương quốc Diễm Ma. Cơi nước có kích
thước cũng cỡ đó, lần lượt thay
phiên nhau mà trụ. Hễ cơi này tan hoại th́ dời qua cơi
khác). Chỗ làm việc chủ yếu của họ là ở
dưới ḷng đất đại địa. Chúng ta
đều biết phía dưới đại địa là
lơi địa cầu. Lơi địa cầu là một biển
lửa; do vậy, địa ngục được gọi
là “tám địa ngục nóng”, đó là chỗ ở và
cũng là chỗ Ngài làm việc. “Tung
quảng lượng diệc nhĩ” nghĩa là [kích
thước ngang dọc] cũng giống như vậy. “Tùng thử triển chuyển,
tán cư dư xứ”, “dư xứ” (những chỗ
khác) giống như trong phẩm
Địa Ngục của kinh Trường A Hàm có nói: “Diêm Phù
Đề Nam, Đại Kim Cang sơn nội, hữu Diêm
La vương cung, vương sở trị xứ, tung quảng
lục thiên do-tuần” (Phía Nam châu Diêm Phù Đề, trong núi Đại Kim Cang có cung vua
Diêm La là chỗ vua Diêm La cai trị, ngang dọc sáu ngàn do-tuần).
Dường như bao gồm toàn thể địa cầu,
toàn bộ trái đất đều thuộc phạm vi cai
quản của Ngài. Do đó, trong phần trước có
nói: Địa ngục ở trong biển cả, trong núi
cao, trong rừng cây, trong hang động, và cũng ở
trên hư không, chỗ nào cũng có. Nói theo thuật ngữ
khoa học hiện thời, sẽ là “kích thước không
gian khác nhau”, chúng ta có thể tin tưởng hiện tượng
này.
Địa ngục là như vậy,
thật ra, cơi nào cũng chẳng phải là ngoại lệ,
chỉ là kích thước không gian khác nhau mà thôi! Nếu một
ngày nào đó, chắc chắn là có ngày ấy, chúng ta có khả
năng đột phá các chiều không gian, trong Phật pháp
có nói điều này, khi tâm địa thanh tịnh th́ các chiều
không gian [khác biệt] chẳng c̣n tồn tại nữa. Các
chiều không gian do đâu mà có? Các khoa học gia biết
đích thực là có chuyện này, nhưng chẳng biết
nó từ đâu mà có. Đức Phật biết, Ngài biết
nguyên do rành rẽ: Đó là do phân biệt và chấp trước
biến hiện. Chúng ta có tâm phân biệt, có tâm chấp
trước, bèn có các chiều không gian. Nếu buông phân biệt,
chấp trước xuống, các chiều không gian khác biệt
sẽ chẳng c̣n nữa. Lúc đó, quư vị sẽ thấy
hoàn toàn. V́ lẽ đó, mỗi pháp giới trong mười
pháp giới đều chứa đựng hết thảy
vũ trụ. Kinh Phật giảng rất thấu triệt:
Một sợi lông hoặc một vi trần là vật nhỏ
nhất, trong đó chứa đựng trọn khắp pháp
giới hư không giới, tất cả hết thảy
thông tin đều được chứa trong đó. Mỗi
vi trần, mỗi sợi lông đều là như vậy.
Quư vị thấy: Đó chẳng phải là “một tức là hết thảy, hết thảy tức
là một” hay sao? Kinh Hoa Nghiêm đă nói chuyện này, thật
sự đă nói thấu triệt, rơ ràng như vậy. Kinh
luận Đại Thừa đă nói, đúng là đă nói chân
thật: “Tức tại
đương hạ” (chính ngay trong lúc này), tức là hiện
tiền, chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai,
cũng chẳng có thế giới này hay thế giới
phương khác! Sống ngay trong giây phút hiện tại,
giây phút hiện tại chính là nhất niệm!
Tiếp đó, giải thích tam ác
đạo là ǵ? “Tam ác đạo
hựu danh tam ác thú” (Ba đường ác c̣n gọi là
tam ác thú), “thú” là thú hướng
(趣向:
hướng về, hướng đến). Thú và Đạo
có ư nghĩa giống nhau. “Hựu
danh tam đồ, vị nhất thiết chúng sanh tạo ác
sở sanh chi xứ; cố danh ác đạo” (c̣n gọi
là tam đồ, là chỗ sanh về của hết thảy
chúng sanh tạo nghiệp, nên gọi là “ác đạo”), tại sao gọi là ác đạo?
Hết thảy chúng sanh tạo ác sẽ sanh về chỗ ấy.
Do các sự ác chiêu cảm, nên gọi là “ác thú”. Do các điều thiện chiêu cảm, nên gọi
là “thiện thú”, đó là cơi
trời. Cơi người là nơi thiện ác hỗn tạp,
nửa ác, nửa thiện. Nếu tâm hạnh của chúng
ta thiện nhiều, ác ít, sẽ sanh lên cơi trời. “Địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh tam đạo, danh tam ác đạo” (ba đường
địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh gọi là tam ác
đạo). Phẩm
Phương Tiện của kinh Pháp Hoa có câu: “Dĩ chư dục nhân duyên, đọa tam ác đạo
(Do nhân duyên các dục, đọa lạc tam ác đạo), “cái vị chúng sanh, như nội
hữu tham cầu dục lạc chi niệm thị vi nhân,
ngoại phan duyên dục cảnh” (nghĩa là: Nếu
chúng sanh trong tâm có ư niệm tham cầu dục lạc làm
nhân, ngoài vin nắm dục cảnh), tức là cảnh giới
ngũ dục lục trần, dục cảnh là ǵ? Đức
Phật dạy: Đó là tiền tài, sắc
đẹp, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ,
“thị
vi duyên, dĩ thử nhân duyên khởi niệm tạo ác,
chung đọa ác đạo” (để làm duyên, th́ do nhân
duyên ấy sẽ khởi niệm tạo ác; cuối cùng sẽ
đọa ác đạo). Cuối cùng, quư vị nhất
định đọa trong ác đạo v́ quư vị có nhân,
có duyên. Tổ tiên người Trung Quốc thật ra
cũng rất phi thường, tôi cảm thấy họ chẳng
phải là phàm nhân, chẳng phải phàm phu. Vào thời
thượng cổ, Phật giáo chưa truyền đến
Trung Quốc, quư vị phải biết: Khi Phật giáo chánh
thức truyền tới Trung Quốc dưới thời
Hán Minh Đế, vào năm Vĩnh B́nh thứ mười,
tức năm 67 Công Nguyên, do quốc gia phái đặc sứ
chánh thức lễ thỉnh [các cao tăng] đến Trung
Quốc. Trước năm 67, [ở Trung Quốc] có [Phật
pháp] hay không? Chắc chắn là có, nhưng chưa phải
là chánh thức. “[Phật pháp] chưa chánh thức” có thể
đă bắt đầu hiện diện [tại Trung Hoa]
vào khoảng giữa đời Châu; những người từ
Ấn Độ đến Trung Quốc du lịch hoặc
buôn bán, chắc chắn cũng đem [Phật pháp] đến
Trung Quốc. Lúc đó, [Phật giáo đồ] số lượng
ít, ảnh hưởng không lớn.
Quư vị thấy người
Trung Quốc giảng về triết lư tánh mạng qua ba
cương lănh được nói trong phần đầu của
sách Đại Học. “Đại
Học chi đạo”, “đại” là đại nhân,
đại nhân là ǵ? Là thánh nhân. “Đại
Học chi đạo” chính là đạo học của
thánh nhân “tại minh minh đức,
tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” (ở chỗ
làm sáng tỏ Minh Đức, ở chỗ thân ái hết thảy
người dân, đạt đến mức tốt lành tột
cùng). Chúng ta dùng giáo nghĩa của kinh Hoa
Nghiêm để giải thích ba cương lănh ấy. Kinh
Hoa Nghiêm nói về Thể, Tướng, Dụng, đó là ba
cương lănh của pháp Đại Thừa, dùng ba chữ
“Đại Phương Quảng”
(大方廣) làm đại biểu. Đại (大) là Thể, Minh Đức
là Thể, Thân Dân là Tướng, Thân Dân là ǵ? Thân (親) là thân ái, yêu mến
hết thảy chúng sanh, có ư nghĩa như vậy. Quảng
(廣) là nói về
Dụng, Dụng là ǵ? “Chỉ
ư chí thiện” (止於至善). Ba câu này rất phù hợp với
Đại Phương Quảng, là tổng cương
lănh, là nguyên tắc chung để giáo hóa chúng sanh của
thánh nhân, của Phật, Bồ Tát. Minh Đức là Tánh Thể,
[tức là] Lư Thể của Tự Tánh. Thân Dân là tướng
mạo, là h́nh dáng của Tự Tánh. “Chỉ ư chí thiện” là Đức Dụng của
Tự Tánh. Nhập môn từ chỗ nào? Làm thế nào để
viên măn? Làm thế nào để viên măn “chỉ ư chí thiện”? Đấy là tác dụng.
Tám cương mục tiếp đó sẽ nói rơ, bắt
đầu từ Cách Vật (格物).
Vật được nói ở đây là dục vọng, tức
Vật Dục (ham muốn vật chất), [Cách Vật là]
phải buông bỏ Vật Dục. Vật Dục chẳng
tốt, là ô nhiễm, là bất thiện. Buông xuống những ǵ? Trong mấy chục năm dạy
học, chúng tôi thường nói “buông
xuống tự tư, tự lợi, buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng, buông xuống tham, sân, si, mạn”,
đó là Cách Vật. Chúng tôi dùng Phật pháp để giải
thích th́ mọi người sẽ dễ hiểu.
Khi đă Cách Vật, trí huệ sẽ
hiện tiền, [tức là] đă Trí Tri! Trí Tri (致知) là ǵ? Trong kinh Quán Vô
Lượng Thọ Phật, điều thứ ba trong Tam
Phước có nói “phát Bồ
Đề tâm”, Bồ Đề là ǵ? Là giác ngộ, chẳng
c̣n mê hoặc nữa, đă thật sự giác ngộ.
Người thật sự giác ngộ, chắc chắn sẽ
“tin sâu nhân quả, đọc tụng
Đại Thừa”, trí huệ mở mang. “Khuyến tấn hành giả”:
Không chỉ thành tựu chính ḿnh, mà c̣n phải giáo hóa kẻ
khác. Thích Ca Mâu Ni Phật giác ngộ, sau khi đă giác ngộ,
suốt đời theo đuổi việc dạy học.
Bốn câu ấy chính là Trí Tri. Đă Trí Tri th́ Ư Thành,
[nghĩa là] ư niệm chân thành bèn hiện hữu. Thành (誠) là ǵ? Một vọng
niệm cũng chẳng có. Trong Cầu Khuyết Trai Bút Kư,
ông Tăng Quốc Phiên đă giải thích và định
nghĩa chữ Thành trong Chân Thành, lăo nhân gia định
nghĩa chữ Thành giống như cách nói trong kinh Phật:
“Một niệm chẳng sanh gọi là Thành”. Ư thành th́
tâm sẽ chánh, tâm chẳng lệch lạc, không tà vạy,
chẳng nhiễm, chẳng tịnh, Phật pháp gọi
đó là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế.
Đó là ǵ? Là cái Dụng của Tâm, tâm khởi tác dụng.
Thể của Tâm là ǵ? Thể của Tâm là Thành Ư. Thành Ư khởi
tác dụng tức là “nhị biên bất lập, Trung
Đạo bất tồn” (Hai
bên chẳng lập, Trung Đạo không c̣n), mới có
thể “chỉ ư chí thiện”.
Hiệu quả của “chỉ
ư chí thiện” là “thân tu,
gia tề, quốc trị, thiên hạ b́nh”. Có thiện
tâm thiện hạnh th́ vua Diêm La đưa quư vị tới
thiện đạo. Do vậy, tam ác đạo chính là “tự
tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, tham, sân, si mạn”. Buông bỏ
những thứ này sẽ là thiện đạo, là trở
về tự tánh.
“Thử chương cụ nhị nguyện”
(chương này nêu lên hai nguyện).
Kinh văn trong trong chương này có hai nguyện là “quốc vô ác đạo nguyện,
cập bất đọa ác thú nguyện” (nguyện cơi
nước chẳng có ác đạo và nguyện chẳng
đọa trong đường ác). Đây là chương thứ nhất. “Thủ sổ cú” (mấy câu
đầu) là nói chung, bốn câu mở đầu, “chi văn ư vi: Ngă nhược chứng
đắc Như Lai Quả Giác, thành tựu Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, tức dĩ cứu cánh thành Phật,
thị thời ngă sở trụ tŕ chi Phật độ, cụ
túc vô lượng bất khả tư nghị công đức
trang nghiêm” (ư của kinh văn là: Nếu tôi chứng
đắc Như Lai Quả Giác, thành tựu Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác tức là đă rốt ráo thành Phật,
th́ ngay khi ấy, trong cơi Phật mà tôi trụ tŕ, sẽ có
đầy đủ vô lượng công đức trang
nghiêm chẳng thể nghĩ bàn).
Đây là ư nghĩa của kinh văn, cụ Hoàng dùng
văn Bạch Thoại để giải thích, chúng ta đọc
thấy rất dễ hiểu. “Dĩ
thượng sổ cú” ([Kinh văn] dùng mấy câu trên
đây), bốn câu ấy, “tổng biểu Cực Lạc
thế giới chi vi diệu thù thắng, cố ư đệ
nhất nguyện thủ tuyên thuyết chi” (để diễn
tả một cách tổng quát những sự vi diệu thù
thắng của thế giới Cực Lạc. V́ vậy,
những câu ấy được tuyên nói ở đầu
nguyện thứ nhất). Phần
mở đầu của nguyện thứ nhất nói rơ sự
vi diệu thù thắng trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Nói thật ra, cơi Cực Lạc là nơi thực
hiện ba cương lănh đă nói trong sách Đại Học,
Tam Cương Bát Mục đều được thực
hiện trọn hết. Người Trung Quốc gọi thế
giới Cực Lạc là “đại
đồng chi trị”. Trong cảnh giới đó, mọi
sự đều viên măn, chẳng có mảy may khiếm khuyết.
Nhân dân khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác đều tùy thuận Tánh Đức. Tánh Đức
như người Trung Quốc đă nói, [chính là] Ngũ
Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, hết
thảy đều được áp dụng trong đời
sống hằng ngày, quư vị đă thấy, đă thấu
hiểu: Những thứ ấy tương ứng với
Tánh Đức. Đấy là cảnh giới thánh hiền,
là xă hội thánh hiền, là nền chánh trị của thánh
hiền.
Con người toàn là bậc thánh
hiền, sự vật toàn là sự vật thánh hiền, cảnh
giới là cảnh giới thánh hiền. Người đời
sau vô cùng hâm mộ, ngưỡng mộ, hy vọng có thể
thực hiện. Có thể làm được hay không? Có thể!
Dùng phương pháp ǵ? Dùng dạy học. Chánh phủ Trung
Quốc chánh thức thiết lập quan chức chăm sóc
việc giáo học. Vào thời vua Nghiêu đă lập ra một
quan chức trông nom giáo dục là Tư Đồ (司徒), đó là danh
xưng của một chức quan. Tư Đồ trông nom
việc ǵ? Trông nom giáo dục, giống như Bộ Trưởng
Bộ Giáo Dục hiện nay. Họ dạy ǵ? Dạy
Ngũ Luân, Bát Đức. Chúng ta thấy trong chương
thứ nhất sách Ngũ Chủng Di Quy của tiên sinh Trần
Hoằng Mưu đă nói về chuyện này, nói về sự
khởi đầu của nền giáo học Trung Quốc,
rất hay! Trung Quốc tiếp nhận sự giáo dục của
thánh hiền quân tử suốt mấy ngàn năm nay, nên
nước này trải qua lịch sử mấy ngàn năm
vẫn c̣n có thể tồn tại. Trong bốn nền
văn minh cổ xưa trên thế giới, ba quốc gia
khác đă chẳng tồn tại, v́ sao? Họ bỏ quên nền
giáo dục thánh hiền, nên mới bị diệt vong.
Người Trung Quốc xem trọng giáo dục thánh hiền,
nên ngày nay vẫn c̣n đứng vững trên thế gian, chớ
nên không biết chuyện này! Nếu không biết chuyện
này, người Trung Quốc sẽ cảm thấy rất
xấu hổ, chẳng biết những thứ quư báu của
tổ tiên để lại, ngay cả người ngoại
quốc c̣n biết mà!
Bốn câu ấy, “dĩ hạ tắc phân tự tứ thập bát nguyện
các các nội dung” (kế đó, lần lượt tŕnh
bày nội dung của từng nguyện trong bốn
mươi tám nguyện). Trong Khoa Phán, tôi gọi [những
phần ấy] là Biệt Đề, gọi bốn câu
trước là Tổng Thuyết (nói chung). Bốn
mươi tám nguyện sau đó là Biệt Thuyết (nói
riêng), báo cáo từng điều riêng rẽ.
“Kỳ hạ đệ
nhất nguyện viết: Vô hữu địa ngục, ngạ
quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại”
(tiếp theo đó là nguyện thứ
nhất: “Chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ
trườn”), đây là nói đến tam ác đạo. “Năi quốc trung vô hữu tam ác
đạo nguyện, thử chánh biểu Di Đà đại
bi tâm thiết, cố thủ lưỡng nguyện duy nguyện
chúng sanh vô khổ, tam ác đạo năi khổ trung chi cực
dă” (đó là nguyện “cơi nước không có ác đạo”.
Nguyện này thật sự thể hiện đức Di Đà
do tâm đại bi thiết tha, nên ngay trong hai nguyện
đầu đă chỉ mong chúng sanh không khổ. Sự khổ
trong ba ác đạo là nỗi khổ nặng nề nhất).
Ở đây đă nêu hết sức rơ ràng: Đức Phật
tạo ra cơi Cực Lạc, vô cùng từ bi, thương yêu
hết thảy chúng sanh, khiến cho chúng ta cảm ân, cảm
động. Quư vị thấy trong quan niệm của Ngài,
khế nhập từ chỗ nào? “Chúng sanh khổ nhất,
hết thảy chúng sanh sanh về cơi nước của tôi
sẽ không phải chịu khổ nữa!” Trong cơi nước
của Ngài, không có tam ác đạo. Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta
đọc phẩm Hoa Tạng Thế Giới và phẩm Thế
Giới Thành Tựu, hai phẩm ấy giới thiệu thế
giới to lớn trong vũ trụ, các khoa học hiện
thời gọi [cách nh́n ấy] là Vũ Trụ Vĩ Mô. Kinh
nói rất rơ ràng, vũ trụ do đâu mà có? Khởi nguyên của
vũ trụ là ǵ? Hiện thời, phần kinh văn ấy
được gọi là “khoa học cao cấp”. Không chỉ
là triết học cao cấp, mà c̣n là khoa học cao cấp.
Nhiều thế giới, nhiều
cơi nước chư Phật đều có lục đạo
luân hồi. Có nơi nào hoàn toàn là Tịnh Độ hay
không? Có chứ! Không nhiều! Vũ trụ quả thật
quá lớn, do vậy, cũng không thể nói [Tịnh Độ]
là thiểu số. Đó là Báo Độ của chư Phật,
Bồ Tát, trong đó không có mười pháp giới, trong
kinh gọi [các cơi ấy] là “thanh tịnh quốc độ”.
Cũng có cơi nước chỉ có tứ thánh pháp giới,
chứ không có lục đạo luân hồi. Do đây biết
rằng: Nếu nói theo cách hiện thời, giáo dục thánh
hiền ở thế giới đó rất phát triển. V́
vậy, cư dân ở đó đều được giáo
dục rất tốt, tâm hạnh đều đoan chánh,
chẳng có ác niệm, nên ở đó không có ác đạo.
Tây Phương Cực Lạc thế giới do A Di Đà
Phật từ bi vô hạn tạo lập dành cho chúng sanh khổ
nạn, thậm chí kiến lập cho chúng sanh trong tam ác
đạo, nên nó có lục đạo; nhưng chúng sanh từ
tam ác đạo sanh về cơi Cực Lạc, quả báo thấp
nhất cũng là được làm thân người, chẳng
phải là súc sanh, dĩ nhiên chẳng phải là ác quỷ,
địa ngục, điều này thật phi thường!
Do đó, thế giới Cực Lạc không có lục đạo,
chỉ có tam đạo, [tức là] có ba thiện đạo,
chẳng có tam ác đạo. Thế giới Cực Lạc
c̣n có một đặc điểm nữa, bốn cơi [Tịnh
Độ] ở đó đều b́nh đẳng, đây là
điểm không thể t́m được trong các cơi nước
chư Phật khác. Trọn pháp giới, hư không giới
đều chẳng có, chỉ riêng cơi Cực Lạc là
như vậy. B́nh đẳng như thế nào? Bốn cơi
b́nh đẳng, cơi Thường Tịch Quang, cơi Thật
Báo Trang Nghiêm, cơi Phương Tiện Hữu Dư, cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, có bốn cơi rơ ràng, nhưng chư Bồ
Tát ở đó đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, đều
b́nh đẳng. Đây là cảnh giới thù thắng vi diệu
cùng cực, chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu chúng ta có Túc Mạng Thông,
biết hạnh nghiệp chính ḿnh đă tạo trong đời
quá khứ, biết những quả báo chính ḿnh đă hứng
chịu, chúng ta sẽ thật sự giác ngộ, sẽ
không dám làm nữa, mệt quá rồi, rất đáng
thương! Tạo nghiệp sanh tử luân hồi trong lục
đạo chẳng có ư nghĩa ǵ cả, mê hoặc,
điên đảo, đối với chúng sanh oan oan
tương báo chẳng bao giờ dứt, nhiều đời
nhiều kiếp đều là như vậy! Đối với
người giác ngộ th́ chuyện này rất đáng
thương. V́ thế, người thật sự giác ngộ
sẽ không muốn làm [chuyện luân hồi] nữa. Đến
nơi đâu? Các cơi nước chư Phật tuy thanh tịnh
trang nghiêm, nhưng đ̣i hỏi điều kiện rất
cao, không thể đến được. Điều kiện
ǵ vậy? Phải đoạn phiền năo! Đoạn Kiến
Tư phiền năo th́ mới có thể sanh trong cơi
Phương Tiện Hữu Dư, tức là tứ thánh pháp
giới. Mấy ai có thể đoạn Kiến Tư phiền
năo? Chúng ta đừng nói mức cao lắm, chỉ nói mức
thấp nhất, Tiểu Thừa Sơ Quả là mức thấp
nhất, ví như lớp Một của Tiểu Học.
[Sơ Quả Tiểu Thừa] đ̣i hỏi điều kiện
là phải buông xuống những cách nh́n sai lầm đối
với vũ trụ và nhân sinh. Cách nh́n sai lầm rất nhiều,
trước hết, phải bắt đầu từ những
chỗ nghiêm trọng nhất. Thứ nhất là quan niệm
có thân thể, chúng sanh trong lục đạo đều chấp
trước thân thể này là Ta, nên họ không thể thoát
khỏi lục đạo luân hồi. V́ sao có lục đạo?
V́ chấp trước thân h́nh này là Ta, đây là một nhân
tố chủ yếu của lục đạo luân hồi,
chỉ cần có chấp trước ấy, chắc chắn
quư vị chẳng thể thoát nổi, đó là chuyện phiền
phức. Sơ Quả Tiểu Thừa đă hiểu rơ, nên
các Ngài không c̣n chấp trước nữa. Tuy không chấp
trước, nhưng họ chưa đoạn dứt tập
khí, vẫn c̣n tập khí sót lại, nên vẫn chưa thoát
khỏi lục đạo luân hồi, phải đạt
đến Tứ Quả th́ mới thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Sơ Quả Tu Đà Hoàn, Nhị Quả
Tư Đà Hàm, Tam Quả A Na Hàm đều chẳng thoát khỏi
lục đạo; nhưng đạt tới A Na Hàm th́
đă thoát khỏi Dục Giới, trong lục đạo,
các Ngài chẳng sanh trong Dục Giới nữa, chỉ ở
trong các cơi trời thuộc Sắc Giới, trụ trong Tứ
Thiền, tức Đệ Tứ Thiền của Sắc
Giới Thiên. Người thông minh lợi căn từ
Sơ Thiền bèn có thể vượt khỏi lục
đạo. Nếu căn tánh kém hơn, phải trải qua
Tứ Không Thiên, tu Tứ Không Định đến tầng
cao nhất là Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, lại tăng
cao hơn nữa, bèn vượt khỏi lục đạo,
quư vị nghĩ xem, quá khó! Chúng ta tu học, hiểu rơ
đạo lư này, sẽ biết phải tu như thế
nào. Niệm Phật cũng đă biết niệm, đừng
chấp trước cái thân là chính ḿnh! Thân là giả, bất
cứ lúc nào cũng có thể buông bỏ. Thân chẳng phải
là ta, thân [là vật] thuộc về ta, thân chẳng phải
là Ta, giống như quần áo, đây là quần áo của
tôi, chẳng phải là tôi. Quan niệm này rất quan trọng.
Quan niệm, tức cách nh́n sai lầm
thứ nh́ là Biên Kiến, tức là “đối lập”. Quư
vị có ưa thích, có chán ghét. Những ǵ ḿnh ưa thích sẽ
không chịu chia sẻ với người khác; những ǵ
ḿnh chán ghét bèn chẳng chịu ở chung với họ,
đó là đối lập nặng nề, là chuyện phiền
phức! Quư vị thấy đức Phật xếp nó vào
tầng thứ hai, [có nghĩa là] chuyện này quan trọng
lắm, chỉ thua chấp trước thân thể mà thôi,
đó là Biên Kiến, phiền phức lắm! Phải tu
hành như thế nào, đặc biệt là đối với
những người ḿnh chán ghét nhất? Lúc trước,
tôi ở Đài Loan, hoặc ở Mỹ, có các đồng
tu đến hỏi tôi về vấn đề này, phải
làm sao? Tôi bảo họ, hăy lập một bài vị Trường
Sanh ghi tên người mà họ ghét nhất, không ưa nhất.
Trong nhà quư vị chẳng phải là có thờ tượng
Phật ư? Hăy đặt bài vị đó cạnh tượng
Phật, mỗi ngày lạy Phật xong, hướng về
bài vị, lạy người đó ba lạy, [làm như vậy
sẽ dần dần] hóa giải [sự đối lập]
ấy. Có nhiều người thật sự làm, có hiệu
quả, [sự chán ghét ấy] giảm bớt rất nhiều.
Có người lạy hết hai, ba năm, nhưng mỗi
lần nhắc tới [kẻ đó] th́ trong tâm vẫn c̣n
ghét, “vậy th́ tôi phải làm sao?” Tôi nói: Công phu của quư vị
c̣n chưa đủ, hăy nỗ lực tiếp tục lạy.
Oan gia hăy nên giải, đừng nên kết. Đối xử
với hết thảy chúng sanh, hăy giữ tâm cung kính, hăy giữ
tâm cảm ơn. Tại sao phải cảm ơn? Hết thảy
chúng sanh từng giờ từng phút đều nhắc nhở
chúng ta, nhắc nhở ǵ vậy? Nhắc nhở chúng ta giáo
dục nhân quả, họ đang biểu diễn. Quư vị
thấy kẻ đó làm lành, đạt được thiện
báo; làm ác mắc ác báo, đều là biểu diễn cho chúng
ta thấy “nhân quả báo ứng
tơ hào chẳng sai”. Đó là đại ân đại
đức đối với chúng ta, rốt cuộc chúng ta
thấy rơ ràng, hiểu rành rẽ. Sau khi thật sự hiểu
rơ, quư vị nhất định sẽ đoạn ác, tu thiện,
đă có trí huệ. “Đoạn ác tu thiện, chẳng có
phân biệt, chấp trước” là mức cao hơn, là Bồ
Tát. Dứt ác mà không chấp trước tướng dứt
ác, tu thiện mà không chấp trước tướng tu thiện,
chuyện ấy thường được nói là “xem trọng thực chất,
không xem trọng h́nh thức, không chấp tướng”.
Không chấp tướng là Bồ Tát, hễ c̣n chấp
trước th́ là phàm phu. Chớ nên không hiểu đạo
lư này.
V́ vậy, nếu quư vị quan sát
cặn kẽ th́ hết thảy sự việc, ở mọi
chỗ, trong mọi lúc đều đang dạy chúng ta,
chúng ta đang được giáo dục. Giáo dục ǵ vậy?
Giáo dục của Phật, giáo dục của Bồ Tát,
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài
Đồng Tử nhằm dạy chuyện này, quư vị thật
sự học sẽ thật sự giác ngộ. Thật sự
đă hiểu th́ quư vị mới hiểu một câu trong
kinh Phật: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Họ đang thị hiện,
đều nhằm dạy ta. Vậy th́ xin chúc mừng quư vị,
trong đời này, quư vị sẽ thành Phật rất
nhanh, v́ sao? Quư vị đă thấy Phật. Hết thảy
chúng sanh đều là Phật, đều đang biểu diễn
cho chúng ta xem, đều đang dạy chúng ta; họ chẳng
dạy bằng lời nói, mà dạy bằng hành động,
làm sao không cảm ân cho được! Thiện Tài đồng
tử có thể thành tựu trong một đời là v́
đạo lư này: Đối với hết thảy chúng sanh
đều “luyến đức
lễ từ”, “luyến”
(戀)
nghĩa là cảm kích. Họ biểu diễn mọi thứ
cho ta xem, có ân đức với ta, ta phải cảm kích họ.
“Lễ” (禮) là cung kính đối với họ, “từ” (辭) là không học theo họ. Họ làm ác, ta không bắt
chước; họ làm thiện, ta bắt chước theo,
nhưng không chấp trước. Nói cách khác, chẳng có mảy
may ư niệm danh lợi ǵ hết. Cổ nhân có hai câu rất
hay, [câu thứ nhất là] “vi
thiện mạc cận danh”, [nghĩa là] quư vị làm việc
thiện chẳng cần nổi danh. Hễ nổi danh là hỏng
rồi! [Câu thứ hai là đối với] chuyện làm việc
ác th́ “mạc cận h́nh”, [ư
nói] có thể làm việc ác, nhưng không thể làm việc
phạm pháp, phải giữ vững [nguyên tắc này]. Do
đó thiện và ác đều có phạm vi “không thể
đến gần”, [nghĩa là] thiện không thể gần
gũi cái danh, ác không thể tiếp cận chuyện phạm
pháp, dạy quư vị giữ nơi Trung Đạo. Người
giữ Trung Đạo là người có phước.
Tiếp đó, sách Chú Giải viết:
“Mật Giáo trung viết: ‘Đại
bi vi căn, Bồ Đề vi nhân, phương tiện vi
cứu cánh’. Hựu Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm viết: ‘Chư Phật Như Lai dĩ đại
bi tâm nhi vi Thể cố’. Cố nguyện quốc trung
vĩnh vô ác thú” (Trong Mật giáo có nói: “Đại bi làm
căn, Bồ Đề làm nhân, phương tiện làm cứu
cánh”. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh
Hoa Nghiêm cũng nói: “Chư Phật Như Lai lấy tâm
đại bi làm Thể”, nên Phật nguyện trong nước
Ngài vĩnh viễn chẳng có đường ác). Những
câu này h́nh dung tâm đại bi thiết tha của A Di Đà
Phật, tâm đại bi thương xót hết thảy
chúng sanh trong ác đạo. Ngài tạo phương tiện cho
chúng ta, phương tiện là cứu cánh. Bồ Tát có thể
xả ḿnh v́ người, siêng dạy chúng sanh, chẳng mệt,
chẳng chán, sức mạnh ǵ thúc đẩy các Ngài?
Người trong thế gian nỗ lực hết ḷng làm việc,
động lực ǵ thúc đẩy họ? Danh lợi thúc
đẩy! Có danh, có lợi, quư vị sẽ làm hết
ḿnh. Nếu không có danh lợi, quư vị sẽ không làm. Sau
khi Trung Quốc cải cách, mở cửa, nhân dân cần mẫn,
phấn khởi [làm việc]. Trước kia, chúng tôi ở
nước ngoài nghe thấy, có không ít người đă
đến Trung Quốc, khi trở về, họ nói như
thế nào? Họ nói: “Dân Trung Quốc biếng nhác nhất
thế giới! Họ chẳng làm việc, chẳng chịu
làm việc, vô cùng tiêu cực”. Đó là ǵ? Lúc đó người
dân sống theo kiểu công xă, chẳng có danh lợi, quư vị
làm nhiều hơn th́ cũng hưởng bấy nhiêu, quư vị
không làm th́ cũng hưởng bấy nhiêu, do đó, ai
cũng không chịu làm. Sau cải cách, làm được
bao nhiêu đều là của chính ḿnh, nên ai cũng ra sức
làm việc trối chết, làm cả ngày lẫn đêm,
đó không phải là một chứng minh cụ thể cho
[sự thúc đẩy của danh lợi] hay sao? Phật, Bồ
Tát chẳng cần ǵ hết, tại sao các Ngài lại làm hết
ḿnh như vậy? V́ tâm từ bi, là bi tâm. Do đó, động
lực này c̣n mạnh mẽ hơn động lực của
danh lợi rất nhiều. [V́ danh lợi] th́ lợi nhuận
không c̣n, sẽ không làm việc; nhưng tâm từ bi th́ các
Ngài chẳng thể không có, tâm ấy vĩnh hằng bất
diệt. Do tâm từ bi thúc đẩy, nên các Ngài vĩnh viễn
không nghỉ ngơi, vĩnh viễn không ngưng nghỉ.
Trong thế gian, không thể t́m động lực nào có thể
sánh bằng tâm từ bi ấy, t́m không ra! Do đó, người
không học Phật thấy dường như những
người học Phật tinh tấn ngần ấy, họ
không có danh, mà cũng chẳng có lợi, tại sao lại
khờ như vậy? Thật ra, họ chẳng khờ tí
nào, đó là v́ tâm từ bi của họ lưu lộ, họ
đang tu Bồ Tát hạnh, chẳng kỳ lạ, hiếm
hoi chút nào! Chúng ta chớ nên không biết điều này.
Bồ Đề là nhân, Bồ
Đề là giác, chẳng c̣n mê hoặc. Quư vị thấy
đó: Đại bi là gốc rễ, bi tâm thúc đẩy
quư vị, có trí huệ sẽ không có phiền năo, đó là Bồ
Đề. Phương tiện: Phương (方) là phương pháp,
Tiện (便) là
phương pháp vô cùng thích đáng. Phương tiện chẳng
có nhất định, hết thảy đều do đối
tượng, do thời điểm, do sự việc, do nhiều
thứ khác nhau, nhưng nói chung đều gom về “chỉ ư chí thiện”. Làm
đến mức tốt nhất, viên măn nhất th́
phương tiện mới có thể thực hiện
được, chẳng phải [chỉ] là một
phương pháp [cố định]. Do đó, nhà Phật
thường thêm hai chữ “thiện
xảo” (善巧: khéo léo) sau chữ “phương
tiện”. [Nói việc ǵ đó] vô cùng tốt lành, vô cùng
khéo léo, việc đó làm được viên măn dường
ấy th́ mới gọi là “cứu
cánh” (究竟: rốt ráo). Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
cũng nói như vậy “chư Phật Như Lai dĩ
đại bi tâm nhi vi Thể” (Chư Phật Như Lai
dùng tâm đại bi làm Thể), chỉ rơ A Di Đà Phật
lúc tu nhân, tức là tỳ-kheo Pháp Tạng, kiến lập
thế giới Cực Lạc, dũng mănh tinh tấn là do
nguyên nhân ǵ? Đại bi, Bồ Đề, phương tiện
khéo léo. Đích thực là rất giống với ư nghĩa “minh đức, thân dân, chỉ
ư chí thiện” được nói trong sách Đại
Học. “Chỉ ư chí thiện”
nghĩa là dùng phương tiện để đạt
đến cứu cánh, “thân dân”
là dùng Bồ Đề làm nhân, “minh
đức” là dùng đại bi làm gốc rễ. Ba
cương lănh ấy (minh đức, thân dân, chỉ ư
chí thiện) là bản tánh của hết thảy chúng sanh.
Tam Tự Kinh nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(con người lúc ban đầu tánh vốn thiện), ba
cương lănh ấy chính là tánh vốn lành, mỗi người
đều có. Tại sao nay chúng ta không có? V́ đă mê mất
tự tánh, tức là mê mất ba cương lănh ấy,
chúng ta mê mất “minh đức,
thân dân, chí thiện”. Minh Đức biến thành vô minh,
chẳng sáng suốt, hồ đồ, chẳng hiểu rơ.
Thân Dân biến thành phiền năo; vốn là trí huệ, Bồ
Đề biến thành phiền năo. Phương tiện thiện
xảo biến thành tạo nghiệp; tạo hết thảy
ác nghiệp, điên đảo mất rồi, đảo
ngược một trăm tám mươi độ. Đó
là phàm phu, phải xoay trở lại th́ mới là thánh nhân,
Phật, Bồ Tát. Đây là nguyện thứ nhất, nguyện
“cơi nước không có ác đạo”.
Lại xem nguyện thứ nh́: “Bất đọa ác thú nguyện,
hoặc viết bất cánh ác thú nguyện” (Nguyện chẳng
đọa vào đường ác, hoặc c̣n gọi là nguyện
chẳng đọa đường ác lần nữa), tức
là nguyện chẳng c̣n đọa trong ác đạo. “Vi đệ nhị nguyện. Thử
thừa đệ nhất nguyện nhi ngôn, ngă quốc bất
đản vô tam ác đạo, thậm chí ư tùng Diễm
Ma La giới” (là nguyện thứ hai. Nguyện này thừa
tiếp ư nghĩa trong nguyện thứ nhất: Cơi ta không
chỉ chẳng có ba đường ác, mà thậm chí từ
cơi vua Diêm La), từ cơi vua Diêm La sanh về, tức là đến
từ cơi địa ngục, “đẳng
ác đạo trung, lai sanh ngă quốc chi nhất thiết
chúng sanh, thọ Phật chi giáo hóa” (hết thảy các
chúng sanh từ các nẻo ác v.v… sanh về cơi ta, nhận lănh
sự giáo hóa của Phật), câu này vô cùng quan trọng, “bất đản vĩnh bất
cánh nhập ác thú, tịnh tất giai thành A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề” (th́ không chỉ vĩnh
viễn chẳng bị sanh vào ác đạo lần nữa,
mà c̣n đều thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác), tuyệt diệu thay! Đây thật sự là dùng
phương tiện để thực hiện cứu cánh,
phương tiện khéo léo đạt đến rốt
ráo chính là “chỉ ư chí thiện”.
Dùng kinh Phật để giải thích những đạo
lư của Nho gia sẽ giảng rất thấu triệt.
Dùng Phật giáo để giải thích một cương
lănh do Nho gia đưa ra, sẽ giảng giải rơ ràng, rành
rẽ, thấu triệt, chúng ta sẽ giác ngộ. Do đó,
Tiến Sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Joseph Toynbee) từng nói: “Tâm lượng của cổ
nhân Trung Quốc rất lớn, có thể bao dung văn hóa của
dị tộc”, [văn hóa dị tộc] chính là Phật
giáo”. Phật giáo chẳng phải là văn hóa bản
địa của Trung Quốc, mà là văn hóa nước
ngoài. Phật giáo truyền đến Trung Quốc, người
Trung Quốc bao dung, hấp thụ, và học tập Phật
giáo. Nhờ đó, Phật giáo phong phú hóa nền văn hóa vốn
sẵn có của Trung Quốc. Chúng ta dùng những điều
này để giảng giải Tứ Thư, Ngũ Kinh, sẽ
nói rất có ư vị, thật sự giảng giải thấu
triệt. Do đó, Phật giáo có cống hiến rất lớn
đối với nền văn hóa truyền thống của
Trung Quốc, quá to lớn. Văn hóa Trung Quốc vĩnh viễn
không thể tách ĺa Phật giáo. Quư vị thấy “chỉ ư chí thiện”
được thể hiện ở chỗ này.
Thậm chí những chúng sanh đến
từ ác đạo, đến từ chỗ vua Diêm La,
chúng ta biết, vua Diêm La cai quản rất nhiều địa
ngục, rất phức tạp. Bất luận từ
địa ngục nào thoát ra, nếu gặp gỡ chúng sanh
hữu duyên, chúng ta có thể lư giải chuyện này, các
chúng sanh đọa trong ác đạo ấy, trong đời
quá khứ đă từng học Phật, nếu họ không
học Phật, sẽ chẳng có cái nhân này, người
khác chẳng thể giúp họ được. Người
nào giúp họ? Nhân vật tiêu biểu là Địa Tạng
Bồ Tát. Chư vị phải biết: Địa Tạng
Bồ Tát chẳng phải là một người. Phàm những
ai tu pháp môn Địa Tạng, phát nguyện vào trong ác đạo
giáo hóa chúng sanh, đều gọi là Địa Tạng Bồ
Tát. Do đó, Địa Tạng Bồ Tát là một danh hiệu
chung, có rất nhiều người mang danh hiệu này.
Người phát nguyện học theo Địa Tạng Bồ
Tát rất nhiều, tâm rất
từ bi, tâm rất hiếu thảo, người như vậy
có duyên với Địa Tạng Bồ Tát, ở trong các
địa ngục khác nhau, trong các phần trước
đă nói [về địa ngục] rất nhiều, họ
ở trong đó giáo hóa những người hữu duyên. Hữu
duyên, có duyên với Bồ Tát th́ trong A Lại Da Thức
đă có chủng tử Phật pháp, họ chịu khổ
trong địa ngục, đau khổ đến cùng cực,
người ấy khuyên họ niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ, họ nghe xong, liền thật sự niệm
A Di Đà Phật, thật sự phát tâm cầu sanh Tịnh
Độ, thật sự văng sanh. Quư vị thấy đó:
Nhanh ngần ấy, chỉ trong ṿng một niệm! Người
có nghiệp chướng rất nặng, nhắc nhở một
lần, họ đă nghe, nhưng v́ quá khổ, nên chưa cảm
nhận được, c̣n chưa tiếp nhận
được, vậy th́ phải tiếp tục chịu
khổ, đến lúc cơ duyên thích hợp, Bồ Tát sẽ
nhắc họ một lần nữa. Có người phải
được nhắc nhở nhiều lần mới giác
ngộ, vừa giác ngộ liền thoát ra. Thọ mạng
trong địa ngục rất dài, rất dài là như thế
nào? Người không gặp duyên sẽ rất dài; nếu gặp
những duyên này, sẽ thoát khỏi rất nhanh. Từ
địa ngục có thể trực tiếp văng sanh Cực
Lạc thế giới, quư vị thấy pháp môn này thù thắng
biết bao!
Chúng sanh cơi địa ngục c̣n văng sanh dễ
dàng ngần ấy, huống hồ nhân gian! Nhân gian khó [văng
sanh] nhất, v́ sao không thể văng sanh? Do chính ḿnh tự
tạo, tự ḿnh nghĩ hoàn cảnh trước mắt
hăy c̣n khá lắm, c̣n tốt đẹp lắm, tham luyến
hoàn cảnh ấy, chẳng nỡ ĺa bỏ, đó là ngu si!
V́ lẽ đó, quư vị niệm Phật không có cảm
ứng, niệm Phật mà chẳng thể tức khắc
văng sanh. Tại sao phải đọc kinh cho nhiều?
Tại sao phải nghe giảng kinh cho nhiều? Dụng ư
ở chỗ nào? Dụng ư là muốn làm cho quư vị có
thể buông xuống, muốn cho quư vị thật sự
hiểu rơ hết thảy mọi sự mọi vật trên
thế giới này đều là hư vọng. Người
xưa có nói hai câu rất hay: “Sanh
không đem theo đến, chết chẳng mang theo đi”. Hai
câu ấy rất có lư! Lúc quư vị tới đầu thai,
chẳng mang ǵ đến. Trong tương lai, lúc quư vị
chết đi, chẳng mang một thứ nào theo
được! Nói với quư vị “tất cả
đều là giả, toàn là để cho quư vị tạm
thời nh́n thấy, quư vị chấp trước làm chi!”
Mục đích thật sự của nghe kinh là ở
chỗ này! Nếu quư vị đă hiểu rơ ràng, hiểu
rành rẽ, có thể không cần nghe kinh nữa. Cứ
thật thà niệm một câu A Di Dà Phật là
được rồi. Nếu chưa buông xuống
được th́ không thể chẳng nghe kinh, v́ sao? Quư
vị c̣n chưa hiểu rơ ràng. Thật sự đă
hiểu rơ, chẳng bao giờ không chịu buông xuống, chẳng
cần người khác khuyên bảo, sẽ tự
động buông xuống. Một khi buông xuống, cảm
ứng sẽ hiện ra, “một niệm tương
ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”, chẳng
thể không buông xuống!
Chúng sanh từ ác đạo đến, được đức Phật giáo hóa. Câu này quan trọng, họ sanh về thế giới Cực Lạc, hằng ngày học hành trong thế giới Cực Lạc. Quư vị hăy tra duyệt kinh điển, cuộc sống hằng ngày của người trong thế giới Cực Lạc là làm chuyện ǵ? Trong thế giới ấy chẳng có sĩ, nông, công, thương. Thế giới Cực Lạc chẳng có các ngành nghề như trong thế giới này. Quư vị thấy đó, tra duyệt trọn bản kinh điển này, đây là đại kinh bậc nhất của Tịnh Tông, [sẽ thấy kinh] chẳng nói bên đó có mua bán, làm quan, hoặc làm bất cứ nghề nghiệp nào, đều chẳng thấy nói! Nếu có, đương nhiên [kinh Vô Lượng Thọ] sẽ nói, trong bốn mươi tám đại nguyện nhất định sẽ nói, nhưng chẳng có! V́ vậy, thế giới Cực Lạc chỉ có hai hạng người: Một là thầy, hai là tṛ. Trừ hai hạng người ấy ra, chẳng có hạng thứ ba! Thế giới Cực Lạc chẳng có tổ chức chánh trị, chẳng có h́nh thức quốc gia, chẳng có quốc vương, chẳng có thiên vương, mà cũng chẳng có Tổng Thống, cũng chưa nghe nói thế giới Cực Lạc có quốc gia, chẳng có! Chẳng có gia đ́nh! Có Bồ Tát, A La Hán, đều là học tṛ. Phật là thầy, hằng ngày dạy học, hằng ngày lên lớp. Không chỉ nghe A Di Đà Phật giảng dạy, mỗi ngày nghe A Di Đà Phật giảng kinh, dạy học, mà đồng thời c̣n nghe mười phương chư Phật giáo hóa. Sanh về bên đó đều có thần thông. Mười phương vô lượng vô biên thế giới, mỗi thế giới đều có Phật giáo hóa chúng sanh. Những người ấy có bản lănh, chẳng rời khỏi A Di Đà Phật, đang nghe kinh dưới ṭa của A Di Đà Phật, mà phân thành vô lượng vô biên thân, trong vũ trụ có bao nhiêu thế giới, họ đều có thể phân thành bấy nhiêu thân, mỗi phân thân đến thân cận một vị Phật.
Thân cận Phật là cúng
dường, cúng dường là vun bồi phước, nghe
pháp là vun bồi trí huệ, phước huệ song tu!
Đến thế giới Cực Lạc tu phước tu
huệ thù thắng lắm! Mỗi ngày quư vị tu
được bao nhiêu phước huệ? Ở thế
giới này, tu ức vạn năm cũng chẳng bằng
tu một ngày trong thế giới Cực Lạc. Chúng ta
muốn tăng trưởng phước huệ mỗi
ngày th́ đến thế giới Cực Lạc mới
thật sự tăng trưởng phước huệ.
Tăng trưởng phước huệ trong thế
giới này chẳng phải là chuyện dễ! Trong thế
giới này, tăng trưởng phiền năo dễ dàng,
tăng trưởng phước huệ rất khó khăn.
Thật sự muốn phước huệ viên măn, hăy mau
chóng đến thế giới Cực Lạc, đúng
như vậy, chẳng giả! Do vậy, quư vị
thấy đó: Tiếp nhận sự giáo hóa của
Phật, không chỉ là vĩnh viễn chẳng c̣n
đọa ác đạo. Chỉ có một ngoại lệ,
họ vào ác đạo để độ chúng sanh trong ác
đạo có duyên với họ. Do có cảm, nên họ
hiện thân Bồ Tát, hoặc hiện thân Phật vào trong
ác đạo nhằm hóa độ chúng sanh. Vào ác
đạo không phải để chịu tội, mà là
Phật, Bồ Tát chẳng có nơi nào không hiện thân.
Nơi nào có cảm, bèn có ứng nơi đó. V́ vậy,
hết thảy đều thành Phật, và đều thành
tựu A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề,
tức Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là
cứu cánh, đó là “chỉ
ư chí thiện”, chẳng có ǵ cao hơn, đúng là “chỉ ư chí thiện”.
“Tịnh
Độ Luận Chú viết: Phật sở đắc
pháp, danh vi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”
(Tịnh
Độ Luận Chú ghi: “Pháp do đức Phật đạt
được gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề”), đây là chú giải
cho chúng ta, nhằm giải thích A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu
Tam-Bồ-Đề là ǵ? Từ ngữ này là tiếng Phạn,
tức ngôn ngữ của Cổ Ấn Độ. “Hựu Pháp Hoa Huyền Tán viết” (Pháp Hoa Huyền Tán lại ghi), [sách ấy] giải
thích “A vân Vô”, [nghĩa
là] chữ A trong tiếng Phạn có nghĩa là Vô
(không), tức là chữ Vô trong từ ngữ “Hữu Vô” (Có,
Không), “Nậu-Đa-La”
nghĩa là Thượng. Hợp lại là vô thượng. “Tam” nghĩa là Chánh, “Miệu” nghĩa là Đẳng.
Sau đó lại có một chữ “Tam” nghĩa là Chánh, “Bồ
Đề” dịch sang nghĩa tiếng Hán là Giác. Do
đó, dịch hoàn toàn sang tiếng Hán sẽ là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, tiếng Phạn gọi là A-Nậu-Đa-La
Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề. Có thể hoàn toàn phiên dịch
từ ngữ ấy, v́ sao lại không phiên dịch? Trong quá
khứ, dịch kinh có một thể lệ, thể lệ ấy
chính là “do tôn trọng, nên không
phiên dịch”. Học Phật th́ rốt cuộc là quư vị
cầu ǵ? Cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
chẳng cầu ǵ khác. Trong đó, tuyệt đối không
có tiếng tăm, lợi dưỡng, tôi chỉ cầu Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đấy là mục
đích cao nhất của người học Phật, tức
là “chỉ ư chí thiện”
như sách Đại Học đă nói. Chí Thiện chính là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do đó, đây là
pháp bậc nhất trong nhà Phật, v́ tôn trọng nên không dịch
nghĩa, chỉ dịch âm, thật ra là có thể dịch,
nhưng do tôn trọng không dịch. Sách Pháp Hoa Huyền Tán
giải thích rơ ràng như vậy khiến cho chúng ta hiểu
rơ. Hôm nay đă hết thời gian, chúng ta học tập tới
đây mà thôi.
Tập 198
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai
trăm ba mươi lăm, hàng thứ bảy đếm từ
dưới lên:
“Đại Trí Độ Luận Bát Thập
Ngũ viết” (quyển thứ tám
mươi lăm trong Đại Trí Độ Luận có
nói). Đại Trí Độ Luận gồm có một
trăm quyển, “bát thập
ngũ” nghĩa là quyển thứ tám mươi lăm,
trong đó có một đoạn như sau: “Duy Phật nhất nhân trí huệ vi A-Nậu-Đa-La
Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề” (chỉ có trí huệ Phật
gọi là A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề).
Trong phần trước, chúng ta đă học: Câu kinh
văn này là hy vọng của người học Phật;
mục tiêu cuối cùng, mục tiêu cao nhất, chính là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Câu nói của Đại
Luận (Đại Trí Độ Luận) rất hay, “duy Phật nhất nhân trí huệ
vi A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề” (chỉ
có Phật mới chứng đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác), chữ “nhất
nhân” chỉ địa vị ấy (quả vị Phật). Quả vị do Bồ Tát chứng
đắc, ngay cả quả vị của Đẳng Giác
Bồ Tát, được gọi là Chánh Đẳng Chánh
Giác, không thêm hai chữ Vô Thượng. Chữ Vô Thượng
chỉ được thêm vào khi đă thành Phật. Thật
ra, đó đều là trí huệ Bát Nhă vốn có sẵn
trong tự tánh của mỗi chúng sanh, trí huệ Bát Nhă chính
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nay trí huệ của
chúng ta biến thành phiền năo, do đó, trong kinh thường
nói “phiền năo tức Bồ
Đề”, đây là sự thật. Khi giác ngộ, sẽ
là trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh. Khi mê trí huệ
ấy biến chất, biến thành phiền năo. V́ lẽ
đó, phiền năo vô lượng vô biên, mà trí huệ
cũng vô lượng vô biên. Đức Phật thấy
chúng ta mê mất tự tánh, hết sức đáng
thương. Đức Phật cùng các Bồ Tát, đặc
biệt là Pháp Thân Bồ Tát, Pháp Thân Bồ Tát cũng đă
thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói thông thường
th́ các Ngài đều có cùng một đẳng cấp, cùng một
địa vị, đều lấy tâm đại bi làm gốc,
dùng thiện xảo phương tiện để giúp
đỡ hết thảy chúng sanh phá mê, khai ngộ, ĺa khổ,
được vui. Nói thật ra, hoàn cảnh cư trú của
chúng ta c̣n thù thắng hơn thế giới Cực Lạc!
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là quê cũ của
chúng ta, là cội rễ của chúng ta. Mục tiêu cuối
cùng của sự học Phật là trở về cơi Thường
Tịch Quang, chứng đắc quả vị Diệu
Giác. Quả Diệu Giác chính là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
Nguyện này thù thắng khôn sánh!
Chúng ta xem tiếp: “Ác đạo
chúng sanh thiện căn vi nhược, phục đa túc
nghiệp, mông Phật nguyện lực gia bị, nhiếp
thọ văng sanh. Sanh bỉ độ dĩ, tất linh thành
Phật. Thử thật A Di Đà Như Lai từ bi chí cực
chi vô thượng thánh nguyện” (chúng sanh trong ác đạo
thiện căn kém cỏi, lại lắm túc nghiệp,
được nhờ nguyện lực của Phật gia
bị, nhiếp thọ văng sanh, sanh sang cơi kia rồi thảy
đều thành Phật. Đây thật là thánh nguyện vô
thượng từ bi đến cùng cực của Di Đà
Như Lai). Câu này có nghĩa là ǵ? Chúng sanh trong địa ngục
có thể thành Phật hay không? Có thể. V́ sao? Chúng ta có thể
nói là trong A Lại Da Thức của hết thảy chúng
sanh đều có đầy đủ chủng tử (hạt
giống) của mười pháp giới. Chủng tử là
nhân, khi gặp duyên, nó sẽ dấy lên hiện hành. Nếu
hạt giống Phật trong A Lại Da Thức của các
chúng sanh trong địa ngục gặp duyên của Phật,
đương nhiên họ sẽ thành Phật, lại c̣n chỉ
trong một niệm! Đây là điều chúng ta có thể
tin tưởng, có thể chấp nhận. Vấn đề
là họ có thể gặp duyên hay không? Khi gặp được
duyên họ có thể tiếp nhận hay không? Then chốt là
ở chỗ này. Tại sao chúng sanh trong địa ngục
chịu khổ nhiều như vậy? Tội địa
ngục đă hết, vẫn phải sanh trong các cơi ngạ
quỷ, súc sanh? Đó là v́ trong địa ngục, tuy Địa
Tạng Bồ Tát giáo hóa trong đó, ngoài Địa Tạng
Bồ Tát ra, c̣n có rất nhiều Phật, Bồ Tát [giáo
hóa chúng sanh nơi đó], chúng sanh có cảm, Phật, Bồ
Tát liền ứng, vấn đề quan trọng ở
đây là túc nghiệp của họ. Nếu thiện căn
của họ kém cỏi, dù có gặp duyên của Phật, họ
vẫn bỏ lỡ, vấn đề ở chỗ này!
Những chuyện giống như
vậy chúng ta cũng đă từng trải qua. Hăy suy
nghĩ về chính ḿnh, đời này đă gặp Phật
pháp, hăy nên nghĩ tới những người trong địa
ngục cũng giống như chúng ta. Chúng tôi từ nhỏ
đă có duyên gặp Phật pháp. Lúc ấy, c̣n ở dưới
quê, những phụ nữ mê tín trong làng quê thường
đến chùa miếu để thắp hương cầu
b́nh an, cầu gia hộ; lúc nhỏ chúng tôi cũng theo cha mẹ
đến chùa miếu cúng bái. Sau này, lớn lên đi học,
hấp thụ giáo dục trong nhà trường, biết
đó là tôn giáo, là mê tín. Sau khi học mấy năm trong
trường, chúng tôi chẳng tin tưởng chuyện
[cúng kiếng] nữa, chẳng c̣n tiếp xúc nữa, đó
là ǵ? Bị túc nghiệp ảnh hưởng, thiện
căn yếu kém, có ư nghĩa ấy.
Nếu đời này tôi không gặp
tiên sinh Phương Đông Mỹ, làm sao có thể học
Phật cho được? Nếu quư vị kể với
những bạn học và giáo viên trong ngôi trường tôi
đă học rằng tôi đă xuất gia, chắc chắn
chẳng có ai tin lời quư vị! Ngay cả bản thân tôi
cũng không ngờ ḿnh sẽ xuất gia, chuyện này không
thể nào xảy ra được! Tôi theo học Triết
với cụ Phương Đông Mỹ, Ngài là một triết
gia lỗi lạc đương thời, là một vị
giáo sư đại học nổi tiếng ở Đài
Loan và cũng nổi tiếng trên quốc tế. Do vậy,
những ǵ tôi học là Triết học. Cụ
Phương giảng khái luận triết học cho tôi,
đề mục cuối cùng là giảng về triết học
trong kinh Phật, tôi cảm thấy hết sức ngạc
nhiên. Lúc giới thiệu Triết học trong kinh Phật,
cụ nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật là một triết gia
vĩ đại nhất trên thế giới”, chúng tôi
chưa hề nghe lời ấy, làm sao chúng tôi biết Phật
Thích Ca là triết gia, đây là lời khẳng định
được thốt ra từ miệng của một triết
gia. Cụ nói: “Triết học trong kinh Phật là Triết
học cao nhất trên toàn thế giới, học Phật
là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người”, câu này rất hấp dẫn, có sức lôi
cuốn rất mạnh. Từ bài giảng ngày hôm đó,
chúng tôi thay đổi quan niệm sai lầm trước
đó, dần dần t́m ṭi và hiểu rơ hơn, và cũng
đến các chùa miếu. Đến chùa chẳng phải
là để thắp hương, cúng bái, mà cũng không phải
là để tham dự các hoạt động của họ;
đến chùa là để t́m kinh sách. Lúc đó, bên ngoài chẳng
bán kinh sách. Thầy bảo: “Hiện
thời, Triết học trong kinh Phật chẳng ở
trong chùa”, ở nơi đâu? Ở trong kinh điển,
nhất định phải t́m trong kinh điển th́ mới
được. Tôi nói: “Đấy là chuyện tốt đẹp!”
Tôi bước vào cửa nhà Phật như vậy đó.
Sau khi nhập môn, bèn [học tập] chân thật, v́ sao? Có
tâm cung kính. Đấy là nghiệp chướng! Nếu
không có tâm cung kính, dẫu được thầy giỏi
đến mấy chỉ dạy, quư vị cũng chẳng
đạt được lợi ích. Quư vị sẽ nghi
ngờ, chẳng tôn kính họ, sẽ không thể t́m
được cửa vào. Ấn Quang đại sư
đă dạy, dạy rất có lư: “Một phần thành kính, đạt được một
phần lợi ích. Mười phần thành kính, sẽ
được mười phần lợi ích”. Quư vị
có thể đạt được bao nhiêu, hoàn toàn tùy thuộc
mức độ thành kính đối với Phật pháp. Chẳng
ăn nhằm ǵ đến thầy giáo, mà là do cái tâm thành
kính. Sau đó, chúng tôi liễu giải, pháp thế gian và xuất
thế gian đều dựa trên ḷng thành kính. Không cung kính
công khóa mà chính ḿnh đang học, chẳng coi trọng và
cung kính thầy giáo, chắc chắn là kẻ đó chẳng
học được ǵ! Đấy chính là túc nghiệp và
thiện căn đang được đề cập ở
đây.
Chúng ta có thể suy tưởng:
Chư Phật, Bồ Tát đều từ bi đến
cùng cực, toàn tâm toàn lực giúp đỡ hết thảy
khổ nạn chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ,
được vui, đấy là sự nghiệp của các
Ngài, là sự nghiệp vĩnh hằng, vĩnh viễn chẳng
thay đổi. Hết thảy thời, hết thảy chỗ,
khi gặp chúng sanh, liền sanh khởi tâm từ bi. Nếu
thiện căn của chúng sanh phát hiện, họ chịu
tiếp nhận [giáo huấn của Phật, Bồ Tát], họ
sẽ được lợi ích, chúng sanh ở địa
ngục cũng chẳng phải là ngoại lệ. Chúng tôi
tin tưởng: Chúng sanh trong địa ngục tuy tạo
nghiệp bất thiện nên đọa địa ngục,
nhưng trong đời quá khứ, nhất định có thời
gian huân tập Phật pháp khá dài. Do đó, thiện căn
trong A Lại Da Thức sâu dầy, vừa gặp [Phật,
Bồ Tát hóa độ] liền quay đầu, tin tưởng,
một niệm tín tâm ấy giúp họ văng sanh Tịnh Độ.
Quá nửa sanh trong Biên Địa Nghi Thành, đây là chuyện
rất có thể xảy ra. Tuy có nghi hoặc, nhưng họ
chịu nghe lời dạy, thử làm theo: “Nếu thật
sự là đúng, chẳng phải là đă chiếm
được tiện nghi ư? Nếu không có th́ thôi”, họ
mang cái tâm ấy nên sanh vào Biên Địa Nghi Thành. Họ thật
sự sanh sang thế giới Cực Lạc, chẳng giả.
Trong thế giới Cực Lạc có người giúp họ
tu hành. “Mông Phật nguyện lực gia bị” (nhờ nguyện lực của
Phật gia bị) chính là nguyện thứ hai.
Nguyện thứ nhất nói rơ thế
giới Cực Lạc không có ba đường ác; nói cách
khác, không ai có tham, sân, si. V́ sao? Tham, sân, si là nghiệp nhân của
ba ác đạo, cũng tức là nói người trong thế
giới Cực Lạc hoàn toàn không có tham, sân, si, mạn,
nghi. Chẳng có nhân, chẳng có duyên, đương nhiên sẽ
chẳng có quả báo. V́ lẽ đó, cơi Phàm Thánh Đồng
Cư của thế giới Cực Lạc chỉ có hai loại
quả báo là trời và người. Tuy là thân phận trời
người, vẫn được Phật lực gia tŕ,
hưởng đầy đủ sự đăi ngộ của
A Duy Việt Trí Bồ Tát, chẳng khác ǵ A Duy Việt Trí Bồ
Tát, đây là điều thù thắng khôn sánh! Sau khi đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất
định thành Phật trong một đời, chỉ là
thời gian sớm hay trễ khác nhau. Sớm hay trễ có
liên quan tới tập khí và túc nghiệp. V́ vậy, có
người dũng mănh, tinh tấn, thời gian chứng quả
sẽ rút ngắn; có người hơi giải đăi, biếng
nhác th́ thời gian thành Phật của họ sẽ kéo dài,
nhưng chắc chắn đều là ngay trong đời
này. Thọ mạng của người trong cơi Cực Lạc
lâu dài, đều là vô lượng thọ; do đó, họ
có đầy đủ thời gian để tu học. Câu
kế tiếp là lời tán thán của cụ Hoàng, cụ
nói: Đây đích thực là “A Di Đà Như Lai từ bi
chí cực vô thượng thánh nguyện” (vô thượng thánh nguyện từ
bi đến cùng cực của A Di Đà Như Lai),
Ngài có nguyện ấy, khiến cho chúng sanh trong ba ác đạo
đều có cơ duyên văng sanh bất thoái thành Phật.
Chúng ta xem đoạn kế tiếp:
“Cái dĩ tùng ác thú đới
nghiệp văng sanh chi chúng sanh, túc cụ ác nghiệp, ưng
đọa ác đạo” (Ấy là v́ chúng sanh từ trong
đường ác mang theo nghiệp văng sanh, vốn đầy
dẫy ác nghiệp, đáng lẽ đọa vào ác đạo).
Nếu họ không gặp Phật pháp, [khi nào] thời gian
thọ quả báo trong ác đạo đă hết th́ mới
có thể thoát ra, thoát khỏi địa ngục. Sau khi
thoát khỏi địa ngục, quá nửa là sanh trong ngạ
quỷ đạo hoặc súc sanh đạo, cũng có khi
sanh trong cơi người hay cơi trời, do gặp duyên khác
nhau. Có khi có duyên gặp Phật, tuy gặp Phật, Bồ
Tát, họ chẳng thể sanh về Cực Lạc, mà sanh
vào cơi Trời hay cơi Người; nhưng sanh trong cơi trời
hay cơi người, trong tương lai chẳng tránh khỏi
phải đọa trong ba ác đạo lần nữa, không
có cách nào né tránh! Do vậy bèn nói: Thoát khỏi lục đạo
luân hồi vô cùng khó khăn! Những người này v́
được nguyện lực của A Di Đà Phật
gia tŕ, được sanh về thế giới Cực Lạc, “văng sanh Cực Lạc, bất
phục cánh đọa tam đồ, cố viết bất
đọa ác thú” (văng sanh Cực Lạc, chẳng đọa
trong tam đồ nữa, nên bảo là “chẳng đọa
đường ác”). Những người này dù sanh đến
cơi Cực Lạc, chư vị nhất định phải
nhớ, chẳng phải sanh trong Biên Địa. Nếu họ
có thể hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, liền được nguyện lực của A Di
Đà Phật gia tŕ, tức là được nguyện A
Duy Việt Trí này gia tŕ. Những chúng sanh có duyên với Ngài
trong ba ác đạo có cảm, Ngài sẽ có ứng, Ngài
cũng có thể hóa sanh trong ba ác đạo để giúp
đỡ và độ họ. Ngài có đọa vào ba ác
đạo hay không? Không thể nào. Ngài từ Tây
Phương Cực Lạc thế giới đến ba ác
đạo, dùng thân phận Bồ Tát, đến đó
để hóa độ chúng sanh, nên vĩnh viễn chẳng
c̣n đọa trong tam đồ nữa.
Tiếp đó, sách viết: “Cố Long Thọ đại
sĩ viết: Nhược nhân sanh bỉ quốc, chung bất
đọa tam thú” (V́ vậy, Đại Sĩ Long Thọ
nói: “Nếu kẻ nào sanh về cơi kia th́ trọn chẳng
đọa trong ba đường ác nữa”). Tam Thú (三趣) là ba đường
ác, vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác. Chúng ta
phải lắng ḷng thấu hiểu câu này, mới biết
sự thù thắng trong đó. Tội nghiệp ba đường
ác của mỗi người chúng ta nặng cỡ nào? [Nghiệp
nhân của] tam đồ là tham, sân, si, chúng ta phải
thêm vào hai thứ, thành tham, sân, si, mạn, nghi, [gọi chung
là] Ngũ Độc, [chúng ta] có hay không? Những ư niệm ấy
thường thường khởi lên, chẳng biết mỗi
ngày khởi lên bao nhiêu lần, quư vị sẽ biết nghiệp
nhân của ba đường ác này nặng đến mức
nào! Duyên bên ngoài gồm có tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền
tài, sắc đẹp, tiếng tăm, ăn uống, ngủ
nghỉ), bên trong có gốc rễ tham,
sân, si, mạn, nghi. Bịnh độc trong A Lại Da Thức
là gốc rễ. Duyên bên ngoài là tài, sắc, danh, thực,
thùy. Khi nhân gặp duyên, quư vị liền tạo nghiệp,
tạo nghiệp của ba đường ác, quư vị nói
xem: Chuyện này có đáng sợ hay không? Mỗi lần khởi
lên một ư niệm là một lần tạo nghiệp; mỗi
ngày quư vị khởi lên bao nhiêu ư niệm? Quư vị tạo
bao nhiêu nghiệp nhân trong ba đường ác? Chúng ta lắng
ḷng suy nghĩ sẽ biết. Mỗi
ngày tôi niệm A Di Đà Phật là tạo tịnh nghiệp
của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thời
gian niệm Phật ít, thời gian khởi ác niệm nhiều!
Ư niệm thiện đang niệm “A Di Đà Phật, A Di
Đà Phật”, niệm mấy câu liền chẳng thấy
[thiện niệm] đâu nữa, chẳng biết đă
quên khuấy từ lúc nào. Lúc ư niệm ác khởi lên th́ niệm
niệm liên tục, quư vị thấy chuyện này lợi hại
hay không, có đáng sợ hay không? Lắng ḷng suy nghĩ, quan
sát, mới biết phiền phức lớn lắm.
Đặc biệt là hiện thời
tai nạn đang xảy ra, xă hội động loạn,
sống trong thế gian này có ư nghĩa ǵ đâu? Lưu luyến
thế gian này tức là không muốn thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Trong lục đạo, cơi trời
và cơi người kể ra vẫn c̣n đỡ một chút,
nhưng thời gian ngắn ngủi, tạm bợ, một
trăm năm giống như thời gian khảy ngón tay,
đến lúc quư vị bảy tám chục tuổi sẽ biết,
chẳng đáng lưu luyến tí nào! Được làm
thân người, phải nên tu hành, phải nên thoát khỏi
lục đạo luân hồi. Chuyện tốt trên thế
gian chỉ có một chuyện, đó là giúp đỡ chúng
sanh phá mê khai ngộ, đó là chuyện tốt. Những chuyện
tốt khác đều chẳng thể thoát khỏi lục
đạo luân hồi, đều là nghiệp luân hồi.
Chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là
chuyện tốt. Đă thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch,
hăy dốc hết tâm lực để niệm Phật. Có
nghi hoặc th́ phải nghe giảng kinh, phải đọc
kinh, giúp quư vị phá mê, sanh tín. Quư vị có nghi hoặc, tín
tâm chẳng đủ [nên phải nghe kinh, đọc kinh
ḥng] giúp quư vị đoạn nghi, sanh tín. Khi tín nguyện
đă vững chắc, có thể không đọc kinh, có thể
không nghe giảng, nhất tâm niệm Phật là được
rồi! Nếu c̣n nghi hoặc, tín tâm c̣n chưa vững chắc,
kinh giáo sẽ giúp đỡ quư vị rất nhiều. Nếu
không có kinh giáo, rất dễ đọa lạc, tự ḿnh
chống đỡ không nổi! Do đó, kinh giáo là trợ
duyên của Phật, Bồ Tát đối với chúng ta. “Hựu Thiện Đạo đại
sư viết: ‘Năi chí thành Phật, bất lịch sanh tử’.
Thị tắc hoành xuất ư lục thú hỹ” (Đại
sư Thiện Đạo cũng dạy: “Cho đến khi
thành Phật, chẳng lăn lóc trong sanh tử nữa”. Đấy
chính là vượt ngang ra khỏi sáu đường vậy). Sanh tới Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chắc chắn sẽ thành Phật,
chắc chắn không đọa trong ba đường ác nữa.
Sau đó, c̣n có một đoạn:
“Hựu thử chương
đại nguyện, nhiếp nhị thù thắng. Nhất
giả, ác thú chúng sanh diệc đắc văng sanh Cực Lạc,
bất phục cánh đọa ác đạo, biểu Di
Đà bi tâm vô tận, độ hóa vô dư dă” (Lại nữa,
đại nguyện trong chương này bao gồm hai
điều thù thắng. Một là chúng sanh trong đường
ác cũng được văng sanh Cực Lạc, chẳng bị
đọa vào ác thú nữa, biểu thị Di Đà bi tâm vô tận,
hóa độ không sót). Chúng ta có thể hiểu được
ư nghĩa này. “Nhị giả,
phàm văng sanh giả, tất giai tác Phật, cứu cánh Bồ
Đề” (Hai là hễ được văng sanh, thảy
đều thành Phật, rốt ráo Bồ Đề). Pháp môn này
chỉ cần quư vị văng sanh, phẩm vị cao hay thấp
không quan trọng. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu
Ích đại sư đă bảo, đấy là Ngài tự
nói, Ngài hy vọng nhất định được sanh về
Tịnh Độ trong đời này, phẩm vị ǵ? Hạ
hạ phẩm là đủ rồi, được như vậy
th́ Ngài đă măn nguyện. Thật vậy sao? Thật
đó! Ngài đă thật sự thông suốt, v́ sao? Quư vị
văng sanh thượng thượng phẩm, bèn là A Duy Việt
Trí Bồ Tát, nhưng hạ hạ phẩm văng sanh cũng
là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Tây Phương Cực Lạc
thế giới là một thế giới b́nh đẳng,
b́nh đẳng với ai? B́nh đẳng với Phật,
b́nh đẳng với A Di Đà Phật. Trong đoạn
sau, chúng ta có thể thấy được [điều
này], khiến cho chúng ta bái phục A Di Đà Phật năm
vóc sát đất, chẳng có lời nào diễn tả nổi!
Ngài là người tốt bậc nhất trong thế gian và
xuất thế gian, chúng ta sanh về thế giới Cực
Lạc sẽ không thua Ngài một tí nào, đều giống
như Ngài! Ngay cả thân thể và tướng mạo
cũng giống Ngài. “Do thử
khả kiến Di Đà bổn tâm, niệm niệm nguyện
nhất thiết chúng sanh thành Phật” (do vậy, ta thấy
được tấm ḷng của Phật Di Đà, niệm niệm
đều nguyện chúng sanh thành Phật), chúng ta phải học
theo tâm niệm ấy. Thật ra, người thế gian
chưa thể thành Phật, mỗi ngày đều tạo
nghiệp, là v́ họ khởi lên ư niệm ǵ? Hy vọng tôi
tốt hơn bất cứ ai khác! Kẻ nào tốt hơn
tôi một chút, tôi liền đố kỵ, liền sanh phiền
năo. Có ư niệm như vậy th́ làm sao thành Phật cho
được? Có ư niệm ấy làm sao văng sanh cho
được? Người thật sự muốn có thể
văng sanh trong một đời này, ở đây, quư vị phải
đặc biệt chú ư, trong các buổi giảng, chúng tôi
thường nhắc nhở đại chúng: Thật sự
cầu văng sanh th́ tâm phải giống như tâm Phật,
nguyện phải giống như nguyện của Phật,
đức phải giống như đức của Phật,
hạnh phải giống như hạnh của Phật. Nếu
tâm, nguyện, đức, hạnh của quư vị giống
như Ngài, chắc chắn quư vị sẽ văng sanh. Chân tâm
là như vậy đó, mỗi ngày quư vị có niệm Phật
hay không đều không sao cả, tự nhiên cảm ứng
đạo giao. A Di Đà Phật có tâm như thế nào? Niệm
niệm đều mong mỏi hết thảy chúng sanh mau
chóng thành Phật. Há Ngài c̣n có oan gia, c̣n có đối đầu
nữa sao? Chẳng hề có! Tại sao? V́ hết thảy
chúng sanh vốn là Phật, bất luận họ phạm lỗi
ǵ, [nguyên nhân khiến họ phạm lỗi] là ǵ? Do mê hoặc
tạm thời, đó chẳng phải là bổn tánh của
họ. Điên đảo tạm thời, xử sự bằng
t́nh cảm, chẳng cần phải bận tâm! Nếu ghim
trong ḷng th́ họ đâu có bị thiệt tḥi, mà là chúng ta
phải chịu thiệt tḥi. Quư vị phải suy nghĩ
thông suốt chân lư này!
V́ vậy, người thật sự
niệm Phật, thật sự cầu văng sanh phải thấy
như thế nào? Phải thấy tất cả hết thảy
chúng sanh đều là A Di Đà Phật, khởi tâm cảm
ân! Phải thật sự thấy như vậy, không phải
là “tôi nên thấy như vậy”, [nếu nói] “nên” th́ đă
sai mất rồi! Sự thật là như vậy, chẳng
giả tí nào! Ai làm được? Thiện Tài đồng
tử đă làm được. Quư vị xem kinh Hoa Nghiêm,
Thiện Tài đồng tử thành tựu trong một đời,
chứng đắc quả vị Phật viên măn trong một
đời, dựa vào ǵ? Dựa vào điều này. Người
giúp đỡ, tán thán, có ân với tôi, tôi niệm niệm
đều không quên, những người ấy là Phật,
Bồ Tát chăm sóc tôi. Người hủy báng, sỉ nhục,
hăm hại tôi cũng là Phật, Bồ Tát, chẳng sai khác
ǵ hết! Đó là Phật, Bồ Tát khảo nghiệm, xem
tôi có sanh phiền năo hay không. Vừa sanh phiền năo liền
phải nên cảm kích, v́ sao? Thi chưa đậu! Rơ ràng là
họ có ân đối với tôi, tại sao tôi lại lấy
oán báo ân? Há chẳng phải là hồ đồ hay sao? Họ
tham muốn những vật ngoài thân, những vật ở
ngoài cái thân này đều là giả, tiền để tôi
dùng hay cho họ dùng chẳng phải là đều giống
như nhau hay sao? Cần ǵ phải so đo? Toàn là rỗng
tuếch! Do đó, tâm cảm ân phải từ chỗ này mà
khởi lên, chẳng có ai ta không cảm ơn cả! Được như vậy
th́ chúng ta mới có thể thành tựu viên măn trong một
đời này. Khi khởi tâm động niệm, hăy
nghĩ xem A Di Đà Phật có bao giờ khởi lên ư niệm
ấy hay chăng? Do đó, phải hiểu đạo lư
này: Chân lư chỉ là mê và ngộ. Mê chứ không giác bèn tạo
nghiệp, tạo nghiệp th́ sẽ luân hồi. Giác chứ
không mê là con đường văng sanh. Nếu người học
Phật cảm thấy có kẻ khiến ta chướng mắt,
có sự việc ta cảm thấy chướng mắt, sai
mất rồi! Quư vị thật sự sai lầm! Người
học Phật gặp chuyện ǵ cũng hoan hỷ. Khi
trước, chúng tôi thường nói: “Người nào
cũng là người tốt, việc ǵ cũng là việc
tốt”. Hăm hại ta cũng là chuyện tốt! Nếu
tôi vượt qua sự khảo nghiệm đó, chẳng
ghim việc đó trong tâm, chẳng oán hận, chẳng phiền
năo, vẫn vui vẻ như thường, pháp hỷ sung măn,
như vậy là đúng. Đó là đă thi đậu, phải
cảm ơn người đă khảo nghiệm ta. Nếu
thi trượt, cũng phải cảm ơn họ. Không
đủ điểm, thi trượt th́ sao? Ta phải nỗ
lực dụng công nhiều hơn, ta chưa qua được
thử thách đó. Đă thi đậu th́ phải cảm
ơn họ, ta đă vượt qua sự thử thách ấy.
Vĩnh viễn sống trong thế giới cảm ơn,
quư vị nghĩ xem: Quư vị sẽ vui sướng, hạnh
phúc biết bao! Khi xưa, thầy dạy Phật pháp cho
tôi, thầy nói: “Học Phật là sự hưởng thụ
cao nhất trong đời người”. Đúng là sự
hưởng thụ tối cao, vĩnh viễn cảm
ơn, vĩnh viễn hoan hỷ, vĩnh viễn tự tại.
V́ thế, chúng ta phải học điều này: “Niệm
niệm đều nguyện cho hết thảy chúng sanh
thành Phật”. Trong lúc quư vị xích mích với kẻ
khác, bất kể là ai, trong tâm chẳng tự tại, chẳng
sảng khoái, hăy niệm câu này: “A Di Đà Phật niệm
niệm nguyện cho hết thảy chúng sanh thành Phật”,
oán hận sẽ được hóa giải, phiền năo sẽ
tiêu trừ hết.
“Nhi thử nguyện kư dĩ thành tựu”
(nhưng nguyện này đă thành tựu), A Di Đà Phật đă thành
Phật trong thế giới Cực Lạc, thành Phật
nghĩa là những nguyện mà Ngài đă phát đều viên
măn, đều trở thành hiện thực, “túc chứng Di Đà trí huệ,
công đức, oai thần, lực dụng bất khả
tư nghị” (đủ chứng tỏ trí huệ công
đức, oai thần, lực dụng của Phật Di Đà
thật chẳng thể nghĩ bàn), đúng vậy! Quư vị
hăy xem nhé, biến toàn bộ tập khí phiền năo thành trí
huệ, công đức, chính ḿnh đă đạt được
và thành tựu thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, vô thượng
thanh tịnh - b́nh đẳng - giác, tự lợi, lại
c̣n lợi tha. Do đó, niệm niệm nguyện cho chúng
sanh thành Phật là lợi tha, tự lợi lợi tha. V́ vậy,
oai thần và lực dụng chẳng thể nghĩ bàn.
“Mạt vân”, nghĩa
là cuối cùng bèn nói, “đắc thị
nguyện, năi tác Phật”, [nghĩa
là] Ngài phát nguyện nếu thỏa nguyện này th́ mới
thành Phật, “bất đắc
thị nguyện, bất thủ Vô Thượng Chánh Giác” (chẳng thỏa nguyện
này, chẳng giữ lấy vô thượng Chánh Giác), Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. “Biểu thử
nguyện thành tựu, ngă phương thành Phật” (ư nói: Nguyện này thành tựu,
ta mới thành Phật). Chữ
Ta là Pháp Tạng Bồ Tát tự
xưng. “Nhược thử
nguyện bất thành, ngă chung bất thành Phật. Cố viết:
Bất thủ Vô Thượng Chánh Giác. Dĩ hạ các nguyện,
giản vi bất thủ Chánh Giác” (nếu nguyện này
chẳng thành, ta trọn chẳng thành Phật, nên nói rằng:
“Chẳng
giữ lấy vô thượng Chánh Giác”. Trong các nguyện
sau, chỉ nói gọn là “chẳng giữ lấy Chánh Giác”).
Như vậy là lược bớt, chỗ này nói đầy
đủ sẽ là “chẳng giữ
lấy Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, những
nguyện sau đều ghi gọn “chẳng giữ lấy Chánh Giác”. Câu văn càng
đơn giản, càng dễ thọ tŕ.
Chúng ta xem kinh văn trong
chương thứ hai. Ở đây, [phần lời nguyện
được] chia thành hai mươi bốn chương,
gồm bốn mươi tám nguyện, bao gồm đầy
đủ các ư trong năm bản dịch gốc, chẳng
bỏ sót. Chúng ta đọc chương thứ hai, gồm
có ba nguyện:
Ngă tác Phật
thời, thập phương thế giới sở hữu
chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma chân kim sắc
thân, tam thập nhị chủng đại trượng phu
tướng, đoan chánh tịnh khiết, tất đồng
nhất loại. Nhược
h́nh mạo sai biệt, hữu hảo xú giả, bất thủ
Chánh Giác
我 作 佛 時,十方 世 界,所 有 眾 生,令 生 我 剎,皆 具 紫 磨 真 金 色 身,三 十 二 種 大 丈 夫 相。端 正 淨 潔,悉 同 一 類。若 形 貌 差 別,有 好 醜 者,不 取 正 覺。
(Lúc
tôi thành Phật, khiến cho tất cả chúng sanh trong
mười phương thế giới sanh về cơi tôi
đều được đầy đủ thân sắc
vàng ṛng trau giồi sáng bóng, ba mươi hai tướng
đại trượng phu đoan chánh, tịnh khiết,
giống hệt như nhau. Nếu họ h́nh dáng sai khác, có
xấu đẹp, th́ chẳng giữ lấy Chánh Giác).
Trong phần trước, tôi
đă tiết lộ tin tức, ở đây, ta thấy
điều đó: Thế giới b́nh đẳng, mười
phương thế giới chẳng có chuyện này! Thứ
nhất là “thân tất kim sắc
nguyện”, tức là “giai cụ
tử ma chân kim sắc thân” (đều được
đầy đủ sắc thân vàng ṛng trau giồi sáng
bóng). Thứ nh́ là “tam thập
nhị tướng nguyện” (nguyện có đủ ba
mươi hai tướng). Từ chữ “đoan chánh tịnh khiết” trở đi là nguyện
thứ ba: “Thân vô sai biệt
nguyện” (nguyện thân chẳng sai khác). Chúng ta không có
ngôn từ ǵ để tán thán, khiến cho chúng ta cảm ân
chẳng hết! Các cơi nước trong mười
phương đều chẳng có [chuyện này], đặc
biệt là chúng sanh trong lục đạo, sanh đến thế
giới Cực Lạc, [dẫu là] hạ hạ phẩm
văng sanh, hết thảy đều trọn đủ, thật
là phi phàm. Sanh trong Biên Địa, kinh đă nói rất rơ:
Sanh về Biên Địa là v́ lúc văng sanh, quư vị có nghi hoặc,
tín tâm trọn chẳng vững chắc. Nếu quư vị
đoạn trừ ḷng nghi ấy, sẽ lập tức nhập
phẩm (thoát ra khỏi Biên Địa, dự vào chín phẩm
văng sanh), [nghĩa là] hạ hạ phẩm văng sanh chính là “nhập phẩm”. Nhập phẩm
th́ những điều đă nói trong nguyện thứ hai
quư vị đều trọn đủ. Sanh trong Biên Địa
Nghi Thành, thời gian dài nhất là năm trăm năm, tức
là năm trăm năm trong nhân gian. Kẻ ấy nhất
định phải đoạn nghi sanh tín. Do đó, có
người ở Biên Địa trong một thời gian rất
ngắn, chỉ mấy ngày liền [giác ngộ và] quay lại.
Chúng ta thường nghe kinh, thường tụng kinh Vô
Lượng Thọ, công đức và lợi ích rất lớn,
v́ sao? Có thể tăng trưởng tín tâm. Dù cho
tương lai sanh trong Biên Địa Nghi Thành th́ cũng có
thể thoát ra rất mau. Chẳng uổng công nghe giảng
kinh này, chẳng uổng sức đọc kinh này! Nghe giảng,
tụng kinh có tác dụng như vậy.
Chúng ta đọc lời chú giải
của cụ Hoàng: “Thử
chương cụ tam nguyện” (chương này gồm
ba nguyện). Trong chương thứ hai có đủ ba nguyện.
“Thập phương thế giới
sở hữu chúng sanh, linh sanh ngă sát, giai cụ tử ma
chân kim sắc thân” (khiến cho tất cả
chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về
cơi tôi đều đầy đủ thân màu vàng ṛng trau giồi
sáng bóng) là nguyện thứ ba “thân
tất kim sắc nguyện” trong bốn mươi tám
nguyện. Chẳng nói không kể Phàm Thánh Đồng
Cư Độ, chẳng nói hạ hạ phẩm văng sanh
trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư Độ không được
bao gồm trong nguyện này. Tức là nói rơ: Chỉ cần
sanh về thế giới Cực Lạc, tất cả
đều có thân vàng ṛng, chẳng có ngoại lệ. “Sanh bỉ độ
giả, thân giai tử ma chân kim chi sắc” (Đă sanh trong cơi ấy, thân đều có màu như
màu của vàng ṛng được trau chuốt đến mức
sáng bóng). Kế đó là phần giải thích: “Chân kim sắc giả, cái vi
Như Lai chi thân sắc. Thiện Đạo đại
sư viết: Chư Phật dục hiển thường
trụ bất biến chi tướng, thị cố hiện
hoàng kim sắc” (màu vàng ṛng là màu nơi thân Như Lai. Đại
sư Thiện Đạo nói: “Chư Phật muốn hiển
thị tướng thường trụ bất biến nên
hiện ra sắc hoàng kim”). Trong
năm thứ kim loại, vàng, bạc, đồng, sắt,
thiếc, ngoài vàng ra, bốn thứ kia đều dễ bị
rỉ sét, màu sắc dễ bị thay đổi, chỉ có
vàng là không bị sét, nên người ta mới coi vàng là quư
giá. Màu của vàng vĩnh viễn không thay đổi, có ư
nghĩa như vậy. Do đó, tướng đức Phật
hiện ra chính là tướng màu này, vĩnh hằng chẳng
biến đổi. Pháp Sư Nhật Khê nói: “Thử biểu Trung Đạo
Thật Tướng sắc” (màu đó tiêu biểu màu của
Trung Đạo Thật Tướng). Vĩnh viễn không
đổi màu cũng có ư nghĩa tiêu biểu pháp, biểu
thị Trung Đạo Thật Tướng. “Kim thử đại nguyện, dục
linh nhất thiết văng sanh chi nhân, đồng Phật thân
tướng, giai chân kim sắc” (Nay trong đại nguyện
này, Phật muốn khiến cho hết thảy người
đă văng sanh đều có thân tướng giống hệt
như thân Phật, đều có màu vàng ṛng), đây là nói
theo phương diện thể chất, thân Kim Cang bất
hoại. Nguyện kế tiếp nói theo tướng mạo,
đều giống nhau! “Thử hiển sanh Phật bất
nhị, chân thật b́nh đẳng” (Nguyện ấy tỏ rơ chúng sanh và Phật không hai,
chân thật b́nh đẳng). Trong các thế giới
khác chẳng b́nh đẳng!
Trên địa cầu, thuở
Thích Ca Mâu Ni tại thế, địa cầu là cơi Phàm Thánh
Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni. Tuy đức Phật
trụ trong cơi Thật Báo, Ngài thị hiện có ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo
trong nhân gian, chẳng b́nh đẳng với nhân loại. Thể
chất của chúng ta khác đức Phật, tướng
mạo cũng không giống nhau. [Thể chất và tướng
mạo của] Ngài thù thắng hơn chúng ta nhiều lắm.
Nhưng trong thế giới Cực Lạc, chẳng t́m thấy
ai có tướng mạo khác biệt A Di Đà Phật! Hết
thảy đều có cùng h́nh tướng, thân thể giống
nhau. Lúc mới bắt đầu học, chúng ta thường
có nghi vấn: Sanh về đó, làm sao biết người
nào là ai? Rốt cuộc ai mới là A Di Đà Phật? Ai là
người mới văng sanh? Chẳng lẽ không thể nhận
ra ư? Đừng bận tâm chuyện ấy! Đến
đó, nhờ Phật lực gia tŕ, quư vị đều là
A Duy Việt Trí Bồ Tát, nên biết rơ ràng, rành rẽ, vị
nào là Phật, vị nào là Quán Âm Bồ Tát, vị nào là đồng
tham đạo hữu mà quư vị quen biết, đều
biết cả, tuyệt đối chẳng nhận lầm!
V́ vậy, trong hiện tại, mà từ xưa đến
nay cũng là như vậy, h́nh Biến Tướng Đồ
của Tây Phương Cực Lạc thế giới luôn vẽ
[Phật, chư Bồ Tát và nhân dân] tướng mạo
không giống nhau, tức là chẳng tương ứng với
bốn mươi tám nguyện! Vẽ tượng Phật
rất lớn, rất cao, c̣n tướng những người
văng sanh cơi đó đều vẽ nhỏ hơn, sai mất
rồi! Thế giới Cực Lạc là liên hoa hóa sanh; hoa
sen vừa nở, khi ấy, tướng của người
văng sanh giống hệt như tướng của A Di
Đà Phật.
“Cố Hội Sớ viết: Thị cố
nguyện ngôn, ngă quốc nhân dân, thuần nhất kim sắc,
vô hữu hảo ác” (V́ vậy, sách Hội
Sớ nhận xét: “Do đó, nguyện rằng nhân dân trong
cơi tôi thuần một sắc vàng, chẳng có xấu, đẹp”),
mọi người đều giống nhau, “bỉ ngă b́nh đẳng, t́nh tuyệt vi thuận” (ta
và người đều b́nh đẳng, dứt tuyệt
ư tưởng trái, thuận). Ư
này rất hay! Tại sao A Di Đà Phật thị hiện
như vậy? Quư vị thử nghĩ xem, Ngài đến
mười phương thế giới khảo sát, tham
quan, lấy điều hay, bỏ điều dở trong hết
thảy các cơi nước chư Phật, [Ngài nhận thấy]
thân thể và tướng mạo của chúng sanh sai khác sẽ
đem đến rất nhiều phiền phức. Người
có tướng tốt sẽ kiêu căng, ngă mạn, người
có tướng xấu sẽ đố kỵ chướng
ngại, như vậy chẳng phải là sanh ra phiền
năo hay sao? Do đó, quư vị đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, đới nghiệp văng sanh, phiền
năo vĩnh viễn sẽ chẳng dấy lên, v́ sao? V́ chẳng
có duyên! Trong thế giới Cực Lạc, tướng mạo
của ai nấy đều giống nhau, chẳng cần
phải chọn lựa, mọi người đều b́nh
đẳng. Do đó, tâm của người trong cơi Cực
Lạc vĩnh viễn giữ ǵn thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác. Đây là trí huệ và lợi ích chân thật của A Di
Đà Phật. Quư vị sanh trong thế giới khác, chắc
chắn sẽ có những ngoại duyên ấy khiến cho tập
khí phiền năo dấy lên, c̣n cơi Cực Lạc chẳng có.
“Hội Sớ chi thuyết,
chánh hiển Trung Đạo Thật Tướng chi
nghĩa” (thuyết của sách Hội Sớ thật sự
đă tŕnh bày tỏ tường ư nghĩa của Trung Đạo
Thật Tướng). V́ lẽ
đó, không thể chẳng đến thế giới Cực
Lạc! Quư vị t́m đâu ra một chỗ tốt đẹp
như vậy? Có những ngoại duyên đó, tức các
duyên bất đồng, sẽ khiến cho quư vị tạo
nghiệp. Chỉ có cơi Cực Lạc là quư vị không có
cách nào tạo nghiệp, v́ thể chất của mọi
người đều giống nhau.
Đoạn kế tiếp nói về
tướng mạo: “Tam thập
nhị chủng đại trượng phu tướng” (ba mươi hai
tướng đại trượng phu), đây chính là “nguyện
ba mươi hai tướng tốt”. “Quốc trung thiên nhân” (trời, người trong
cơi nước ấy), nói rơ
cơi Phàm Thánh Đồng Cư “giai
thị tam thập nhị chủng đại trượng
phu tướng, thị vi đệ tứ nguyện,
xưng vi táp nhị tướng nguyện. Tam thập nhị
chủng đại trượng phu tướng, hựu
danh tam thập nhị đại nhân tướng, giản
xưng tam thập nhị tướng. Thử tam thập
nhị tướng, bất hạn ư Phật, Chuyển
Luân Thánh Vương diệc cụ thử tướng” (đều
đủ ba mươi hai tướng đại trượng
phu là nguyện thứ tư, [nguyện này] c̣n gọi là
“nguyện ba mươi hai tướng”. Ba mươi hai
tướng đại trượng phu c̣n gọi là ba
mươi hai tướng đại nhân, gọi tắt là
ba mươi hai tướng. Ba mươi hai tướng
này chẳng phải riêng ḿnh đức Phật mới có,
Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ ba
mươi hai tướng). Đức Phật Thích Ca giới
thiệu thế giới Cực Lạc, có nhiều chỗ
c̣n dè dặt, [v́ phải] tùy thuận kiến thức thông
thường của chúng sanh trên thế gian này, v́ sao? V́ nếu
nói sự thật, quư vị sẽ không tin. Nói là “ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp” th́ quư vị mới tin, v́ sao? V́ thế giới
này có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp. Ai có? Chuyển Luân Thánh Vương có; bởi lẽ,
tướng tốt là phước báo.
“Trí Độ Luận bát thập bát” (quyển thứ tám mươi tám của Trí Độ
Luận), trong quyển ấy
có nói, “vị Phật hiện
thử đại nhân tướng giả, nhân tùy thử
gian Diêm Phù Đề trung Thiên Trúc quốc nhân sở thuyết,
tắc vị hiện táp[5]
nhị tướng” (Phật hiện ra tướng
đại nhân này là v́ “thuận theo quan niệm của
người Thiên Trúc nơi cơi Diêm Phù Đề trong thế
gian, nên hiện ra ba mươi hai tướng). Thuyết
này rất tuyệt, “Phật bổn
ly tướng, nhi hiện tướng giả, thuận thế
gian tập tục cố” (Phật vốn ĺa tướng,
lại hiện có tướng, là thuận theo tập tục
thế gian vậy). Nếu nói thật với quư vị th́
trong đại kinh có nói, Cực Lạc thế giới A Di
Đà Phật thân có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, quư vị sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới mới biết.
Điều thù thắng khôn sánh trong cơi Cực Lạc là các
hàng trời, người đều có h́nh tướng
như vậy: Ai cũng có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, chẳng phải chỉ
có ba mươi hai tướng mà thôi! Nói thật với quư
vị, xác thực là không ai có thể sánh bằng. Trong
mười phương thế giới, tướng của
chư Phật, tướng của Bồ Tát, Thanh Văn,
trời, người đều có sai khác, chẳng giống
nhau, chỉ riêng thế giới Cực Lạc là thể chất
giống nhau, tướng mạo giống nhau.
Đức Thế Tôn đă thuận
theo kiến thức thông thường của chúng sanh để
nói. Tiếp theo đó, cũng giới thiệu [ba
mươi hai tướng] đơn giản một chút. “Hựu Pháp Giới Thứ Đệ
hạ” (lại nữa sách Pháp Giới Thứ Đệ,
quyển hạ), “hạ” là
quyển hạ, “Như Lai ứng
hóa chi Thể, hiện thử tam thập nhị tướng,
dĩ biểu Pháp Thân chúng đức viên cực, sử kiến
giả ái kính, tri hữu thắng đức khả sùng,
nhân thiên trung tôn, chúng thánh chi vương. Cố vị hiện
tam thập nhị tướng” (Nơi thân ứng hóa của
đức Như Lai thị hiện ba mươi hai tướng
này để biểu thị Pháp Thân có các đức viên măn
đến cùng cực, khiến cho người khác trông thấy
liền yêu kính, biết Phật có đức hạnh thù thắng
đáng tôn sùng, là bậc tôn quư trong trời người, là
vua của chư thánh. V́ vậy, Phật thị hiện có
ba mươi hai tướng). Các
vị đồng học chúng ta nên biết chư Phật,
Bồ Tát, kể cả A La Hán, khi ứng hóa trên thế gian
đều hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức.
Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật nói: “Tùy chúng
sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh mà ứng hiện phù hợp
với khả năng hiểu biết của họ). Ba
mươi hai tướng ấy tương ứng với
sự hiểu biết của chúng sanh. Nếu nói “thân có vô lượng tướng,
mỗi tướng có vô lượng hảo” th́ chúng sanh
chưa bao giờ nghe nói tới. Do vậy, phải dùng tri
kiến b́nh thường của chúng sanh, trong tâm họ
thường mong mỏi: “Tôi phải trọn đủ những
tướng tốt nào, trong sách tướng số cũng
có ghi [những tướng tốt đẹp ấy]”,
[chư Phật bèn] dùng phương pháp ấy để xứng
hợp ḷng ưa thích của chúng sanh, cho nên hiện tướng
ấy. Như trong kinh Pháp Hoa, đức Phật [có nêu ra một
tỷ dụ]: Đức Phật dẫn dụ chúng sanh khiến
cho họ tiếp nhận Đại Thừa, nhưng họ
không chấp nhận. Do đó, Ngài nêu ra ba loại xe. Quư vị
thích xe nhỏ, đức Phật bảo quư vị ngoài cửa
có một chiếc xe dê. Rất nhiều người thích xe
dê, đủ để một người ngồi mà thôi.
Lại bảo quư vị c̣n có xe nai, có rất nhiều xe
nai, mọi người đều ưa thích. Rốt cuộc,
ra ngoài cửa chỉ có xe ngựa, xe ngựa lớn nhất,
chẳng có xe dê hay xe nai, chỉ có xe ngựa, toàn là xe lớn.
Đây là một phương pháp khéo léo của Phật
để dẫn dắt chúng sanh. Ở đây cũng vậy,
nói với quư vị ba mươi hai tướng đại
trượng phu, quư vị nghe xong vô cùng hoan hỷ, đến
thế giới Cực Lạc, [sẽ thấy] c̣n thù thắng
hơn nhiều, quư vị mới thật sự sanh tâm hoan
hỷ lớn lao.
Ở đây có một câu tiêu biểu
pháp, câu này rất quan trọng “biểu Pháp Thân chúng đức
viên cực” (biểu thị
Pháp Thân có các đức viên măn đến cùng cực),
viên măn tột độ! Thân ấy có vô lượng tướng,
mỗi tướng có vô lượng hảo. “Sử kiến
giả ái kính” (Làm cho người
trông thấy liền yêu kính), v́ sao? Tánh Đức viên măn hiển lộ. Đây là nói tập khí vô thỉ
vô minh đều đoạn sạch. Khi tập khí chưa
đoạn, tướng ấy có hiện không? Vẫn hiện!
Tập khí chưa đoạn dứt. Nói thật ra, lúc minh
tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật th́ sẽ hiện
tướng, chẳng phải chỉ là ba mươi hai
tướng, tám mươi thứ hảo. Thường nói
là “thân có vô lượng tướng,
mỗi tướng có vô lượng hảo”, tướng
ấy hiện ra. Lúc hiện ra, mức độ rơ rệt
kém hơn một chút. Thí dụ như so giữa vô lượng
tướng hảo của Thập Trụ Bồ Tát và Thập
Hạnh Bồ Tát th́ tướng của Thập Hạnh Bồ
Tát rơ ràng, Thập Trụ Bồ Tát kém hơn một chút. Thập
Hạnh Bồ Tát lại kém hơn Thập Hồi Hướng
Bồ Tát một chút. Thập Hồi Hướng Bồ Tát
lại kém hơn Thập Địa Bồ Tát một chút,
đó là ǵ? Do tập khí vô minh của họ chưa đoạn.
Thật ra, hết thảy [các tướng] đều có,
chẳng phải là không có, nhưng đạt đến quả
vị Đẳng Giác, [các tướng ấy] sẽ hiện
ra viên măn; đến quả vị Diệu Giác th́ chẳng
c̣n nữa, quả vị Diệu Giác trở về tự
tánh. Do vậy, đạt đến quả vị Đẳng
Giác là viên măn nhất. Khi đạt đến quả vị
Diệu Giác, phàm những ǵ có tướng đều là
hư vọng, tướng ấy cũng chẳng c̣n nữa,
trở về tự tánh. Trong kinh này có nói ba thứ chân thật,
cái được gọi là “chân
thật chi tế” chính là trở về tự tánh.
Chúng ta mê là mê từ tự tánh, một
niệm bất giác, tự tánh biến thành A Lại Da,
đến cuối cùng, khi nhập địa vị Diệu
Giác, trở về tự tánh, giống như một sự
tuần hoàn rất lớn. Sau đó, có c̣n tuần hoàn
như vậy nữa hay không? Trong hội Lăng Nghiêm, tôn
giả Phú Lâu Na đă hỏi giùm chúng ta câu hỏi này, Thích
Ca Mâu Ni Phật dạy: Sẽ chẳng mê trở lại.
Chúng ta có thể tin tưởng hay không? Có thể chứ!
V́ chúng ta đă trải qua chu tŕnh ấy, đă tỉnh mộng
rồi, đều đă từng trải qua, đều có
kinh nghiệm, sẽ chẳng mê nữa, đều biết
đó là sự việc như thế nào. Lúc chưa có kinh
nghiệm, rất khổ; lúc mê, chẳng hay, chẳng biết,
khởi tâm động niệm, tạo tội, thọ báo,
do vậy, tạo nên mười pháp giới, tạo luân hồi,
tạo ra ba đường ác. Sau khi trở về tự
tánh, sẽ chẳng như vậy nữa. Trong khắp pháp
giới, hư không giới, vẫn c̣n có một số
người chưa quay lại, rất nhiều người
như vậy, tự tánh khởi tác dụng, cũng là Diệu
Giác Cứu Cánh Phật khởi tác dụng: Chỗ nào có cảm,
bèn ứng hiện chỗ đó; ngay trong cơi Thật Báo Trang
Nghiêm cũng có ứng. Trong cơi Thật Báo có cảm, th́ các
Ngài ứng đến đó. Chuyện cảm ứng đạo
giao này, nói thật ra là ở ngay trong lúc đó, v́ nó không có
thời gian và không gian. Không có thời gian th́ chẳng có
trước sau, không có không gian th́ chẳng có khoảng cách,
tức là ngay ở trong lúc đó, những chuyện này
đều là sự thật.
Chúng ta xem lời giải thích
đơn giản trong phần kế tiếp: “Tam Tạng Pháp Số tứ thập
bát” (theo Tam Tạng Pháp Số, quyển bốn
mươi tám). Hiện thời, Tam Tạng Pháp Số có rất
nhiều bản in, số trang khác nhau. Trong bản Tam Tạng
Pháp Số tôi đang dùng, [điều sắp nói được
ghi trong] trang năm trăm hai mươi tám. Trong sách ấy,
[điều đó được chép trong] quyển bốn
mươi tám. Chúng ta xem trang năm trăm hai mươi
tám, sách ấy nói rơ hơn một chút, chúng ta hăy đọc
thử.
Tướng thứ nhất là: “Túc an b́nh tướng” (bàn chân
bằng đầy), tức
là ḷng bàn chân không có chỗ nào lơm xuống, đều bằng
phẳng. Chúng ta có thể thấy bàn chân của trẻ
sơ sinh bằng phẳng, chân Phật cũng bằng phẳng,
nên gọi là “an b́nh tướng”,
chẳng có chỗ nào bị lơm xuống. Tôi cũng nghe nói:
Hiện thời, nếu đi lính mà bàn chân bằng phẳng
như vậy, người ta sẽ không tuyển người
đó. Quư vị thấy mỗi địa phương có
phong tục khác nhau, người Ấn Độ cho đó
là hảo tướng, c̣n nay chúng ta tuyển lính lại chê.
Do đó, cổ nhân chú giải rất hay, nói đó là tập
tục của Ấn Độ, họ cho rằng đó là
tướng tốt.
Tướng thứ hai: “Thiên bức luân tướng, túc
hạ hữu luân h́nh giả” (tướng bánh xe ngàn
căm: Dưới bàn chân có h́nh bánh xe). Đây là nói tới các lằn chỉ trong bàn chân,
giống như chỉ tay vậy, mỗi ngón tay đều
có hoa tay. Dưới chân đức Phật có h́nh
bánh xe, được gọi là tướng bánh xe ngàn
căm. Tướng này tương đối ít thấy.
Tướng thứ ba: “Thủ chỉ tiêm trường tướng, thủ
chỉ tế trường giả” (Tướng ngón tay
dài nhọn, tức là ngón tay thon dài). Đây là một tướng
tốt.
Tướng thứ tư: “Thủ túc nhu nhuyễn tướng”
(tướng chân tay mềm mại). Người Trung Quốc
cũng cho đây là tướng tốt. Nếu quư vị bắt
tay với người giàu sang, tay họ mềm như bông
g̣n, đúng là khác hẳn.
Tướng thứ năm: “Thủ túc man tướng” (tướng
chân tay có màng lưới). Tướng này rất ít thấy,
giữa các ngón chân và ngón tay có màng lưới nối liền
nhau giống như chúng ta thấy loài ngỗng hay vịt,
giữa các ngón chân của chúng có màng nối liền. Đó là tướng thứ
năm.
Tướng thứ sáu: “Túc cấn măn túc tướng, cấn
thị túc chủng, chủng viên măn vô ao xứ” (Tướng
gót chân đầy đặn: Cấn (跟) là gót chân, gót chân đầy đặn không khuyết).
Lũ phàm nhân chúng ta không có tướng viên măn này.
Tướng thứ bảy: “Túc phu cao hảo tướng” (tướng
lưng bàn chân vun tṛn). “Phu” (趺) là mu (lưng) bàn
chân. Chúng ta ngồi xếp bằng tĩnh tọa gọi là
“già phu tọa”. Đây là nói
mu bàn chân, “túc bối cao khởi
nhi viên măn giả” (mu bàn chân cao đầy, tṛn trịa).
Tướng thứ tám: “Thuyên như lộc vương
tướng” (tướng bắp đùi như nai chúa).
Ta gọi “thuyên” (腨) là bắp đùi,
xác thực là đùi nai. Nai chạy rất nhanh v́ đùi nai
rất khỏe. Do vậy, quư vị thấy đùi nai tṛn
trịa, đây là một tướng khoẻ mạnh.
Tướng thứ chín: “Thủ quá tất tướng” (tướng
tay dài quá gối), tay dài qua
khỏi đầu gối. Tay người thường
không dài như vậy, nhưng chúng ta thấy tay của khỉ
vượn rất dài. Đây là một tướng tốt.
Tướng thứ mười: “Mă âm tàng tướng, Phật chi
nam căn, mật tàng thể nội, như mă âm dă” (Tướng
mă âm tàng: Nam căn của Phật ẩn kín trong cơ thể
như âm ngựa).
Tướng thứ mười một:
“Thân tung quảng tướng” (tướng
thân to rộng), thân thể cao ráo và “đầu túc chi cao, dữ trương lưỡng
thủ chi trường tương tề dă” (Chiều cao
từ chân tới đầu bằng với khoảng cách
hai tay giang ra).
Tướng thứ mười
hai: “Mao khổng sanh thanh sắc
tướng, nhất nhất mao khổng sanh thanh sắc
chi mao, nhi bất tạp loạn” (tướng lỗ
chân lông có sắc xanh: Nơi mỗi lỗ chân lông mọc một
sợi lông có màu xanh, nhưng các sợi lông chẳng mọc
loạn xị). Đại khái là người Ấn Độ
lắm lông hơn chúng ta. Quư vị thấy lông của
người ngoại quốc đều rất dài, sẫm
màu. Chúng ta thường thấy màu tro hoặc đen, chứ
màu xanh khá ít thấy.
Tướng thứ mười
ba: “Thân mao thượng mị
tướng” (Lông trên thân mướt đẹp), lông
trên thân mịn, mọc xoáy về phía phải, hướng
lên trên.
Tướng thứ mười bốn: “Thân kim sắc tướng” (tướng
có thân sắc vàng), trong phần trước chúng ta đă
nói, thân Phật có màu vàng ṛng.
Tướng thứ mười
lăm “Thường quang[6] nhất trượng
tướng, thân phóng quang minh, tứ diện các nhất
trượng” (Tướng thân có thường quang chiếu
xa một trượng: Thân Phật tỏa quang minh, mỗi
phía đều chiếu xa đến một trượng).
Trên thực tế, người Trung Quốc gọi Quang là
Khí. Người luyện Khí Công biết, họ có thể thấy
được Khí, trong Phật pháp gọi là Quang. Quang lớn
nhỏ khác nhau, màu sắc khác nhau. Thông thường, nh́n vào
Khí, có thể biết t́nh trạng sức khoẻ nơi
thân thể của một người, lại c̣n có thể
thấy rất chính xác. Có thể thấy rằng: Đích
thực là có Quang! Hiện thời, do tâm chúng ta sôi nổi, tạp
niệm quá nhiều, nên chẳng trông thấy, đă mất
khả năng này; nhưng trẻ nít có thể nh́n thấy.
Trẻ nít ngây thơ, không có tạp niệm, nên có thể
nh́n thấy. Dần dần lớn lên, do vọng niệm
nhiều sẽ không nh́n thấy nữa! Nhưng trẻ nhỏ
ngày nay khác thuở xưa, trẻ nhỏ thuở trước,
lúc tám chín tuổi vẫn c̣n thể thấy những thứ
người thông thường chẳng thấy. Tôi nghĩ
trẻ nhỏ hiện thời ba tuổi th́ đă không
được rồi, v́ sao? Mỗi ngày từ sáng tới
tối xem TV, TV đă nhiễu loạn chúng nó, rối loạn
những năng lực sẵn có của chúng.
Tướng thứ mười
sáu: “B́ phu tế hoạt tướng”
(tướng da dẻ mềm mại, mượt mà),
tướng này chúng ta dễ hiểu.
Tướng thứ mười bảy: “Thất xứ b́nh măn tướng”
(tướng bảy chỗ bằng phẳng, đầy
đặn). Bảy chỗ là hai ḷng bàn chân, hai ḷng bàn tay,
hai vai và đảnh đầu. Bảy chỗ ấy đều
bằng phẳng, đầy đặn, không bị khuyết
hăm.
Tướng thứ mười
tám: “Lưỡng dịch măn
tướng, dịch hạ sung măn” (tướng hai nách
đầy đặn, dưới nách tṛn đầy)”. Phần
dưới nách chúng ta đều bị lơm vô, nhưng trên
thân Phật, chỗ này tṛn đầy.
Tướng thứ mười
chín: “Thân như sư tử
tướng. Thân thể b́nh chánh, oai nghi nghiêm túc” (tướng
có thân h́nh như sư tử. Thân thể đầy đặn,
đẹp đẽ, oai nghi đoan nghiêm). Oai nghi là dung mạo,
cử chỉ, tất cả các tư thái động tác “như sư tử vương”
(như sư tử chúa). Chúng ta ít thấy sư tử,
nhưng trong truyền h́nh, trong chương tŕnh động
vật kỳ quan th́ có thể trông thấy.
Tướng thứ hai
mươi: “Thân đoan trực
tướng, thân h́nh đoan chánh, vô ủ khúc giả” (Tướng
thân thể đoan trực, thân h́nh đoan chánh, không cong vẹo). “Ủ khúc” (傴曲) là như lưng
cong, hay lưng gù. Chẳng có tướng [cong vẹo] ấy!
Tướng thứ hai mươi
mốt: “Kiên viên măn tướng.
Lưỡng kiên viên măn nhi phong du giả” (tướng
vai tṛn đầy, hai vai tṛn trịa, đầy đặn),
có nghĩa là hai vai rất viên măn, đầy đặn.
Tướng thứ hai mươi
hai: “Tứ thập xỉ
tướng” (Tướng có bốn mươi cái
răng). Phật có đủ bốn mươi cái răng.
Người thường chúng ta chỉ có ba mươi sáu
cái răng, bốn mươi cái răng là quư tướng.
Tướng thứ hai mươi
ba: “Xỉ bạch tề mật
tướng” (tướng răng trắng, khít, bằng).
Không chỉ có bốn mươi cái răng, mà răng Ngài
c̣n đều rất cứng cáp, trắng sạch, bằng
đều nhau.
Tướng thứ hai mươi
bốn: “Tứ nha bạch tịnh
tướng” (tướng bốn răng nanh trắng sạch),
đây là nói tới bốn cái răng nanh, tức bốn cái
răng to ở hàm trên và hàm dưới, răng nanh đó
mà!
Tướng thứ hai mươi
lăm: “Giáp xa như sư tử
tướng” (tướng má tṛn đầy như tướng
sư tử). Hai g̣ má tṛn đầy, giống như sư
tử hai bên má đều có tóc mai, râu, h́nh thể cân đối,
tṛn đầy.
Tướng thứ hai mươi
sáu:“Yết trung tân dịch
đắc thượng vị tướng. Phật chi yết
hầu trung, thường hữu tân dịch, phàm thực vật,
nhân chi đắc thượng vị” (tướng
nước miếng trong họng có vị ngon ngọt nhất:
Trong cổ họng Phật thường có chất nước
miếng khiến cho ăn vật ǵ cũng trở thành
thơm ngon nhất). Chúng ta có thể hiểu điều
này. V́ thế, thuở đức Phật tại thế, ra
ngoài khất thực, người ta cho ǵ Ngài ăn nấy,
tuyệt đối chẳng chọn lựa. Đă thế,
Tăng đoàn thật sự là một đoàn thể Lục
Ḥa, b́nh đẳng. Khi thác bát (tŕ bát khất thực) bèn
chia ra (thành nhiều nhóm nhỏ) đi khắp các đường
phố, ngơ hẻm để khất thực. Quư vị thấy
một đoàn thể lớn như vậy, một ngàn hai
trăm năm mươi lăm người, tôi tin là phải
chia thành nhiều tổ nhỏ. Mỗi người đi
khất thực, xin xong, trở về cùng ăn chung. Khi
quay về, bèn dồn chung lại, thật đúng như câu
nói: “Một bát, cơm ngàn nhà”,
nên b́nh đẳng. Quư vị xin được thức
ăn rất ngon, người khác xin được thức
ăn dở, mọi người đều trộn chung lại.
Đă trộn chung lại, chúng tôi tin tưởng khi
được đức Phật gia tŕ th́ mùi vị đều
trở thành món ăn ngon lành nhất, cảnh chuyển theo
tâm mà! Ngài có năng lực ấy.
Tướng thứ hai mươi bảy:
“Quảng trường thiệt
tướng. Thiệt quảng nhi trường, nhu nhuyễn,
tế bạc, triển chi tắc phú diện nhi chí ư
phát tế giả” (tướng lưỡi rộng dài:
Lưỡi to mà dài, mềm mại, thanh mảnh, khi thè ra
che cả khuôn mặt đến tận mí tóc). Phật có
tướng lưỡi rộng dài, lưỡi thè ra rất
mỏng, có thể che cả khuôn mặt.
Đối với các tướng này, ở
đây chẳng nói đến nhân. Trong ba mươi hai
tướng, tám mươi thứ hảo, mỗi tướng
hảo đều có nhân. Do vậy, kinh có nói Bồ Tát tu
hành chứng quả, trước khi thành Phật, phải
dùng thời gian dài một trăm kiếp để tu
tướng hảo. V́ sao? Tướng hảo là tu phước
báo. Nếu không có phước báo, người ta không thích
quư vị. Khi quư vị đến giúp người khác, họ
không tiếp nhận, không chịu tiếp
nhận; do vậy, phải tu phước báo. Điều
này cũng nhằm ban cho chúng ta một sự khải thị,
hy vọng chúng ta đều có thể phước huệ
song tu. Nếu quư vị tu phước, không tu huệ, tức
là phàm phu. Tu huệ, không tu phước, quư vị sẽ chẳng
thể độ chúng sanh. Tôi có đọc một bài
văn, [tức là] một lá thư do ông Tăng Quốc
Phiên gởi cho bạn. Trong đó, ông Tăng Quốc Phiên cảm
thán thời thế mỗi ngày một suy vi. Ông nói rất
nhiều kẻ, thậm chí là kẻ đọc sách mà vẫn
tham danh lợi, chẳng thật ḷng v́ nước v́ dân,
toàn là v́ tiếng tăm, lợi dưỡng cá nhân, hết
sức đáng cảm khái! Họ làm quan lớn, giữ
địa vị cao, hưởng bổng lộc dồi
dào, trọng hậu, lại thoái thác trách nhiệm, chẳng
chịu thật sự dốc sức phục vụ nhân
dân. Ông thật sự gặp người tốt, nhưng
người tốt đó có địa vị rất thấp,
lại c̣n chẳng có cơ hội, chẳng được
trọng dụng. V́ vậy, suốt đời khốn
đốn, sau cùng ôm hận mà chết. Đối với
chuyện này, ông vô cùng cảm khái. Người học Phật
chúng ta biết tại sao lại như vậy? V́ sao người
tốt chẳng được hưởng quả báo tốt?
Họ có trí huệ, nhưng thiếu phước báo, v́
đời trước tu huệ, chẳng tu phước,
nên họ phải chịu quả báo như vậy. Những
kẻ làm quan lớn, chẳng có tâm yêu nước
thương dân chi cả, nhưng họ lại
có địa vị cao quư, là v́ họ có tu phước, chẳng
tu huệ, nên có phước báo lớn. Chúng ta hiểu rất
rơ ràng, liễu giải chân tướng sự thật. Do vậy,
gặp Phật, quư vị sẽ đạt được
[phước huệ], thật sự đạt được
viên măn. Nếu phước không đủ th́ cũng
được [Phật dạy phương pháp tu để] tăng thêm phước. Nếu huệ
không đủ th́ sẽ được [Phật dạy
phương pháp tu để] tăng thêm huệ. Hễ gặp
Phật pháp th́ tất cả sẽ đầy đủ,
đại viên măn.
Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng xuất
gia, Ngài sẽ làm vua, cho thấy phước báo của Ngài
rất lớn. Tuy xuất gia, dạy học, đệ
tử thường theo Ngài có tới một ngàn hai trăm
năm mươi người, đó là những vị
thường đi theo Ngài; c̣n những người không
thường theo Ngài, hoặc chỉ theo học trong
một thời gian ngắn, tôi phỏng đoán khoảng ba
ngàn người. Có một đoàn thể đông
đảo như vậy, đó là phước báo. Ngài
được đại chúng trong xă hội cung kính, tán
thán, mỗi người đều là học tṛ tốt,
những người đi theo Ngài đều là
phước huệ song tu, tiếp nhận lời dạy
của đức Thế Tôn. Sau đó, họ dạy
lại người khác, đi khắp bốn phương
tám hướng để dạy học; do đó,
phước huệ song tu. Đây là nói chúng ta phải xem
trọng cả phước lẫn huệ, đức
Phật đặc biệt coi trọng tu phước. Lúc
chúng tôi mới bắt đầu theo học với
thầy Lư, khi thầy chỉ dạy chúng tôi luôn nhắc
nhở chúng tôi đừng lơ là tu phước. Nếu
không có phước báo, thầy nói rất rơ ràng: “Nếu anh có Huệ, giảng
kinh đến mức hoa trời rơi lả tả,
nhưng sẽ như thế nào? Sẽ chẳng có ai nghe,
đó là ǵ? V́ chẳng có phước báo, chẳng có duyên
với người ta”. Do đó, phải coi trọng tu
phước, thầy thường răn nhắc chúng tôi
phải kết pháp duyên, phải tu phước. Đám
học tṛ chúng tôi cũng rất nghèo, tiền thâu nhập
rất ít, tu phước bằng cách nào đây? Thầy
rất khéo léo. Mỗi tuần, thầy giảng kinh hai
lần, một lần ở thư viện, một lần
ở liên xă. Thầy dạy những người học
giảng kinh chúng tôi, hai mươi mấy người, vào
những ngày thầy giảng kinh, chúng tôi đến
tiếp đăi. Tiếp đăi là tu phước. Chúng tôi
đứng ở cửa chào đón mọi người
đến dự, hướng dẫn mọi người,
xếp chỗ ngồi cho họ, phát kinh sách. Thầy nói:
“Nếu các anh có chút tiền lẻ, hăy mua đậu
phộng, phát cho mỗi người một hạt,
hoặc một viên kẹo. Đó đều là tu
phước, đều là kết duyên”. Chúng tôi học
từ chỗ ấy. Do vậy, sau này pháp duyên thù thắng,
càng kết duyên càng rộng. Phải thật sự làm th́
mới được.
Đức Phật dạy chúng ta đừng
tích lũy tiền tài, v́ “tích
tài thương đạo” (tích lũy tiền tài th́
tổn thương đạo). Nếu có tiền tài th́
sao? Có tiền tài th́ phải bố thí, [tiền tài] từ
mười phương đến th́ trở về
mười phương, hiệu quả là ngày càng
nhiều, ngày càng thù thắng. Càng thù thắng th́ phải làm
nhiều hơn, không làm không được. Phương
pháp tốt nhất là ǵ? Đời này tôi học theo Ấn
Quang đại sư, suốt đời Ấn Quang
đại sư dùng tiền mười phương cúng
dường cho Ngài để làm một chuyện là pháp
bố thí. Quư vị thấy Ngài dùng tiền do người
khác cúng dường cho Ngài để lập ra Hoằng Hóa
Xă. Hoằng Hóa Xă giống như một nơi lưu thông
kinh Phật. Ngài có thể tự xuất bản. Lúc đó,
Ngài đă mua một bộ máy, đó là máy xếp khuôn chữ
bằng ch́. Ngài c̣n có công nhân, tức là có công nhân sắp
chữ, có người giảo chánh, đối chiếu,
biên tập, giống như một thư cục vậy, có
thể tự in, in rất đẹp! Bản in của
Hoằng Hóa Xă có khổ chữ lớn, rơ ràng, dùng giấy
in cũng tốt, rất chú trọng phẩm chất. Quư
vị đọc các bản sách ấy rất thích, v́ ít
chữ sai. Ít chữ sai th́ gọi là bản in tốt. Do
đó, so với những bản in tốt trong thời
cận đại, có thể nói là sách của Hoằng Hóa Xă
xứng đáng là những bản in tốt đẹp. V́
vậy, đây là một chuyện rất khó có, chúng tôi
học theo lăo ḥa thượng: Suốt đời lăo ḥa
thượng chỉ làm một chuyện này mà thôi. Lúc
gặp tai nạn, lăo ḥa thượng cũng làm việc
cứu trợ, lấy tiền từ đâu [để
cứu trợ]? Lấy từ ngân khoản in kinh sách
để làm chuyện này; nhưng in kinh, ấn tống
thiện thư là việc chính yếu, cả đời
Ngài chẳng làm việc ǵ khác, chẳng xây chùa, ở
nhờ đạo tràng của người khác, chỉ làm
một việc này. Tôi cảm thấy làm như vậy
rất tốt, đỡ bận ḷng, chẳng bị
vướng bận mảy may. Lưu thông Phật pháp trên
toàn thế giới, việc này thật chẳng dễ dàng!
Hiện nay, chúng tôi làm rất nhiều việc.
Chúng tôi có thể phát sóng trên truyền h́nh, có thể làm
mạng lưới Internet, có thể làm CD, DVD, có thể in
sách, nhưng tất cả đều có tánh chất
giống nhau: Khiến cho càng nhiều người biết
đến Phật pháp, liễu giải Phật pháp,
học tập Phật pháp, có thể đạt
được thành tựu thù thắng trong Phật pháp,
đó là việc tốt, vô lượng công đức. Cúng
dường nhiều th́ sao? Cúng dường nhiều th́
chúng tôi đem in những bộ sách lớn. Năm kia, tôi
nhờ Thương Vụ Ấn Thư Quán tái bản bộ
Tứ Khố Toàn Thư, đặt họ in một
trăm bộ. Năm nay đă hoàn thành, sách đă
được gởi tới Hương Cảng. Chúng tôi
gởi mười bộ tới Úc Châu, mười bộ
tới Mă Lai, cũng gởi mười bộ cho Indonesia,
vài bộ cho Nhật Bản, phần c̣n lại sẽ
gởi đến các trường đại học ở
Đại Lục. Tuần trước, Thế Giới
Thư Cục cũng đến t́m tôi, họ muốn tái
bản bộ Tứ Khố Hội Yếu. Nghe xong, tôi
rất hoan hỷ, bộ này c̣n hay hơn bộ Toàn Thư,
giá trị c̣n cao hơn bộ Toàn Thư.
Lúc vua Càn Long [xuống chiếu sai các quan] biên
soạn bộ sách ấy nhằm mục đích nhằm
bảo tồn sách vở của Trung Quốc, chẳng
để cho chúng bị mất đi, dụng ư rất
tốt. Thuở đó đều là chép tay. Có tất cả
bảy bộ Toàn Thư, chia ra cất giữ ở bảy
chỗ. Hiện thời, do chiến tranh loạn lạc,
Toàn Thư chỉ c̣n ba bộ rưỡi, [tức là] có một
bộ chẳng đầy đủ và ba bộ hoàn
chỉnh, sách Hội Yếu dành riêng cho vua xem. V́ thế,
trong Toàn Thư, những câu văn không có lợi đối
với triều đ́nh nhà Thanh đều bị xóa
mất, nhưng trong Hội Yếu th́ không bị xóa;
[bởi lẽ], Hội Yếu là sách dành cho vua xem, chẳng
phải để cho người ngoài xem. Hội Yếu
chỉ có hai bộ, một bộ để ở thư
pḥng của nhà vua, bộ thứ nh́ để ở
vườn Viên Minh. Vườn Viên Minh bị liên quân Anh
Pháp hủy diệt, nên [Hội Yếu] chỉ c̣n lại
một bộ. Bộ này hiện nay được giữ ở Đài Loan, họ dựa trên h́nh
chụp để in lại. Lần in thứ nhất, tôi
mua khoảng hơn sáu chục bộ, lúc đó, xuất
bản tổng cộng hai trăm bộ, tôi đă mua
ước chừng hơn sáu mươi bộ. Tôi là khách
mua sách chủ yếu của họ, nên bây giờ họ
đến t́m tôi muốn tái bản. Tôi nói: “Tốt lắm,
tôi đồng ư mua một trăm bộ”. Thật là
tốt, Hội Yếu có giá trị c̣n cao hơn bộ Toàn
Thư, nhưng phân lượng chỉ bằng một
phần ba của Toàn Thư. Do đóng b́a cứng thành
năm trăm tập, nên chỉ bằng một phần ba
bộ Toàn Thư. Nếu tiền cúng dường của
tôi nhiều th́ tôi in nhiều, in những bộ sách lớn,
tiền ít th́ in ít, hết thảy đều để làm
việc này.
Gần đây tôi c̣n in một bộ sách nhỏ
hơn. Bộ sách này cũng là sách tôi thường tâm
niệm. Có đồng tu gởi tặng, chẳng biết
là ai tặng nữa, đó là bộ Quần Thư Trị
Yếu. Ở đây, tôi giới thiệu đơn
giản cùng mọi người. Sách ấy do
Đường Thái Tông hạ lệnh biên tập. Chúng ta
biết Đường Thái Tông lúc mười sáu tuổi
đă theo cha khởi nghĩa, b́nh định xă hội
động loạn thuở ấy, về sau, lên ngôi vua. Lúc
làm vua, ông liền nghĩ cách cai trị quốc gia như
thế nào? Nhất định phải t́m các tài liệu
trị quốc của những triều vua trước,
những tài liệu ấy nằm rải rác trong Tứ
Khố Toàn Thư (đương nhiên là lúc đó chưa có
Tứ Khố Toàn Thư, nhưng hiện nay, dùng chữ
Tứ Khố Toàn Thư th́ mọi người đều
biết), thuộc các phần Kinh, Sử, Tử, Tập.
Ông sai Ngụy Trưng là một vị đại thần
rất nổi danh đời Đường, [nhà vua] sai
Ngụy Trưng làm chủ biên, t́m những phần văn
tự có liên quan đến vấn đề trị
quốc, tu thân, tề gia, b́nh thiên hạ trong các tác phẩm
thuộc loại Kinh, Sách, Sử, Tử để chép
lại, biên soạn thành một bộ sách. H́nh như
họ dùng đến tất cả sáu mươi mấy
loại sách, sáu mươi mấy loại sách ấy
đều có trong Tứ Khố, tổng cộng có
khoảng năm mươi mấy vạn chữ. Sau khi
sách được soạn xong, Đường Thái Tông
mỗi ngày đều đọc. Do sách chẳng rời
tay. Đối với nền thịnh trị thời Trinh
Quán (Trinh Quán là niên hiệu của Đường Thái Tông),
bộ sách này có cống hiến vô cùng to
tát, rất hay! Vào đời Đường, những
người làm quan nhất định phải đọc
sách này.
V́ lẽ đó, tôi nghĩ tới bộ sách này, v́ đối với chánh trị, trị gia, trị quốc, thậm chí để điều hành xí nghiệp hiện thời, chủ nhân hoặc các vị quản trị xí nghiệp, công ty, và những người làm lănh đạo đều cần phải biết [những đạo lư trong bộ sách ấy]. Khi đồng học tặng sách này cho tôi, vừa đọc tôi đă rất thích. Sách này được in vào đầu thời Dân Quốc, tám chục năm trước. Sách tám chục năm trước mà tôi mở ra xem, dường như chưa có ai từng đọc, c̣n rất mới, c̣n rất sạch. Tôi cũng đưa cho Thế Giới Thư Cục, nhờ họ in cho tôi ba ngàn bộ. Tôi in để làm ǵ? Để làm quà tặng. Tặng cho ai? Tặng cho những người đang ở trong chánh trường, đang làm quan, làm chủ công ty, tôi dùng làm quà tặng họ. Lúc đó, tôi lập tức nghĩ sẽ tặng sách này cho [những người lănh đạo trong] đảng Cộng Sản, đảng Quốc Dân, đảng Dân Tiến, đó là chuyện tốt! Sách này in càng nhiều càng hay, từng chữ từng câu đều trân quư, rất đáng đọc. Sách bao gồm những đức hạnh làm người cơ bản, thảy đều đầy đủ, là một cuốn sách rất hay. Muốn phục hưng văn hóa truyền thống Trung Quốc, quư vị đọc sách này cũng như đọc sáu mươi mấy loại sách thuộc thể loại Kinh, Sử, Tử, lại có thể khơi gợi hứng thú t́m đọc Tứ Khố.
C̣n một loại nữa, lúc tôi có
được bộ Hội Yếu thứ nhất, tôi
đọc rất thích thú, nên nghĩ có thể trích yếu
những phần tinh hoa tốt đẹp trong sách, soạn
thành một cuốn sách, tôi đă có ư niệm ấy. Tôi t́m
em tôi, t́m những người về hưu ở Trung
Quốc, t́m các giáo sư dạy Quốc Văn, t́m ba
bốn người, mời họ xem Hội Yếu
[để trích lục]. Lúc đó, tôi tặng đại
học Phục Đán một bộ. Ở Thượng
Hải có hai bộ: Đại học Phục Đán
một bộ, thư viện Thượng Hải giữ
một bộ. Mời họ xem rồi trích lục. Sau
đó, tôi thấy những phần họ trích lục
cũng không được hợp lư cho lắm, nên bỏ
dở. Gần đây, hằng ngày vẫn nghĩ tới
việc này, nào ngờ khi Thương Vụ Ấn Thư
Quán khai trương, lúc đó là cuối đời nhà Thanh,
tôi chưa ra đời, họ đă soạn một bộ
sách gọi là Quốc Học Trị Yếu. Chữ Trị
này không phải là Chính Trị, mà là Trị Học. Quốc
Học Trị Yếu là một bộ sách gồm tám
cuốn dày dường ấy. Có nội dung ǵ? Bao gồm
[những phần trọng yếu về đạo b́nh trị
trong] Kinh, Sử, Tử, Tập của Tứ Khố,
phần Tập họ cũng biên soạn. Toàn Thư
chỉ có Kinh, Sử, Tử, chẳng có Tập, bộ này
có Tập. Tác phẩm này chính là Tiểu Tứ Khố Toàn
Thư. Quá lư tưởng! Tôi đă xem và rất thích. Trung
Hoa Thư Cục xuất bản [bộ sách ấy] vào
năm Dân Quốc mười chín (1930), tôi xem thử có t́m
được nguyên bản hay không. T́m được
nguyên bản, tôi cũng muốn in lại với số
lượng lớn để tặng thư viện các
trường. Đó là tinh hoa của các sách vở trong
Tứ Khố, trích lục những phần tinh hoa, rất
có giá trị. Phân lượng của sách này c̣n nhiều
hơn bộ Quần Thư Trị Yếu.
Do đó, tôi thường nói: Phương pháp
để phục hưng văn hóa truyền thống Trung
Quốc là phải có người thật sự phát tâm,
suốt đời dốc chí học hỏi, chẳng mong
lên chức, chẳng màng phát tài, th́ mới làm
được chuyện này. Tâm danh lợi nặng nề
sẽ chẳng thể làm chuyện này thành công. Tâm danh
lợi thật đạm bạc, chúng ta sống trên
thế gian này có thể ăn no, mặc ấm, có căn nhà
nhỏ để che mưa che nắng là vui sướng
lắm rồi, người như vậy mới có thể
làm việc này. Họ có thể thật sự làm
được chuyện “vị
cổ thánh kế tuyệt học, vị thiên hạ khai
thái b́nh” (kế thừa
cái học tuyệt diệu của bậc cổ thánh, tạo
thái b́nh cho thiên hạ), đó là sự nghiệp thánh
hiền, suốt đời thích làm chuyện này, chẳng
chán. Vậy th́ phải làm sao? Trước hết, phải
tu đức hạnh. Chúng tôi thường nói đức
hạnh gồm có bốn cội rễ, phải thực
hiện được [giáo huấn của] Đệ
Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp
Đạo và Sa Di Luật Nghi, sốt sắng học
tập, dốc sức thực hành. Lại c̣n phải
học thuộc ḷng hai trăm bài cổ văn, sẽ
chẳng c̣n gặp chướng ngại nơi chữ
nghĩa nữa. Quư vị có thể đọc Tứ
Khố, chẳng gặp khó khăn về mặt văn
tự, v́ đă nắm được ch́a khóa, đă
lấy được ch́a khóa để đọc
Đại Tạng Kinh. Quư vị có thể đọc
Đại Tạng Kinh, hoặc đọc Tứ Khố
Toàn Thư, chẳng bị trở ngại về văn
tự. Quư vị có thể đổ công dốc sức
mười năm hoặc hai mươi năm học Nho
giáo th́ nhà Nho hạng nhất của Trung Quốc sẽ xuất
hiện. Nếu học Đạo giáo th́ sẽ thành
thần, thành tiên; học Phật bèn thành Phật, thành
Bồ Tát. Dốc sức từ mười năm cho
tới hai mươi năm chắc chắn có thể
đạt được, Trung Quốc sẽ hưng
vượng. Tiến sĩ Thang Ân Tỷ đă nói: “Thế kỷ hai mươi
mốt là thế kỷ của người Trung Quốc”,
xin thưa với chư vị, đó là thế kỷ
của văn hóa Trung Quốc, phải hiểu chuyện
này! Văn hóa Trung Quốc không chỉ có thể cứu
quốc gia dân tộc của chính ḿnh, mà c̣n có thể
cứu cả thế giới, toàn thế giới
đều cần đến. Điều này dựa trên
kinh nghiệm mười năm gần đây của tôi.
Tôi tiếp xúc các tôn giáo khác, các chủng tộc khác, các
vị lănh đạo của nhiều quốc gia, tôi
giới thiệu văn hóa truyền thống Trung Quốc
cho họ, chẳng có ai không hoan hỷ, họ đều có
thể tiếp nhận, rất khó có! Chúng ta phải trân quư,
phải nỗ lực, thật sự phát nguyện
đến thế gian này để làm chuyện lớn lao,
cuối cùng, đừng quên niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ, thành Phật! Đến thế giới
Cực Lạc để thành Phật.
Tiếp đó, tướng thứ hai
mươi tám: “Phạm âm thâm
viễn tướng” (tướng Phạm âm sâu xa). “Phạm âm” nghĩa là thanh
tịnh, tức là âm thanh của Phật thanh tịnh, có
thể nghe được từ xa, chẳng cần
phải dùng máy khuyếch âm, từ rất xa cũng có
thể nghe rơ ràng, có tướng tốt như vậy.
Điều này cũng khiến cho chúng ta nghĩ tới lúc
đức Thế Tôn tại thế, chẳng có khoa học
tiên tiến như ngày nay, chẳng có thiết bị
khuyếch âm, nhất là nơi đồng trống, lúc
giảng kinh phần lớn là trong rừng, hoặc bên
bờ sông, ba ngàn người, nói chuyện mà người
ta có thể nghe rơ ràng. Chúng ta sẽ thắc mắc [v́ sao ba
ngàn người có thể nghe rơ], đọc tới
tướng hảo này, chúng ta liền hiểu: Âm thanh
của Phật chẳng giống âm thanh của phàm phu chúng
ta, có thể nghe từ xa.
Tướng
thứ hai mươi chín: “Nhăn
sắc như cám thanh tướng” (tướng màu
mắt như màu cám thanh), [cám thanh (紺青)] là
tướng tṛng mắt màu xanh biếc hơi pha sắc
đỏ.
Tướng
thứ ba mươi: “Nhăn
tiệp như ngưu vương tướng, nhăn mao thù
thắng” (Tướng lông mi như trâu chúa, lông mày thù
thắng), giống như lông mi của trâu, rất rơ ràng,
rất ngay ngắn, chẳng rối loạn tí nào.
Tướng
thứ ba mươi mốt: “Mi
gian bạch hào tướng” (Tướng bạch hào
giữa hai chân mày). Thật ra, [vệt tṛn sáng lóng lánh
giữa hai mày của tượng Phật] chẳng
phải là một hạt châu, mà là hai sợi lông cuộn tṛn
ở chính giữa hai chân mày, cuộn theo chiều phải
và c̣n phóng quang. Đức Phật thường phóng hào quang
từ chỗ này.
Tướng
thứ ba mươi hai: “Đảnh
thành nhục kế tướng” (trên đỉnh
đầu có tướng nhục kế). Chúng ta thấy
tượng Phật, trên phần trước của
đỉnh đầu có một khối màu đỏ,
đó là Nhục Kế (肉髻),
c̣n gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng. Kinh Lăng
Nghiêm nói rất rơ, nhiều người có thần thông,
muốn bay lên hư không để nh́n đảnh
đầu Phật, nhưng nh́n không được v́
chỗ đó phóng quang. Đỉnh đầu phóng quang nên
nh́n không thấy, chỗ đó gọi là Vô Kiến
Đảnh Tướng[7].
“Vọng Tây sư
viết: Y thử nguyện cố, chúng sanh sanh giả, giai
cụ chư tướng, bất giả tu đắc” (Sư Vọng Tây nói: “Do
bởi nguyện ấy, các chúng sanh đă văng sanh
đều đủ các tướng, chẳng cần tu mà
tự đạt được”). Quư vị
thấy Bồ Tát thành Phật phải tu, phải dùng
thời gian một trăm kiếp để tu phước
th́ mới có ba mươi hai tướng tốt.
Người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới được tiện nghi quá lớn, sanh về
thế giới Cực Lạc, do quả báo liền
đạt được, trọn đủ, chẳng
cần phải tu. “Cụ túc
thử tướng, vi hoa khai hậu” (Có đầy
đủ các tướng đó sau lúc hoa sen nở), hay là
trước khi hoa nở? Có người hỏi rốt
cuộc là trước khi hay sau khi hoa sen đă nở? “Đáp: Bất đăi hoa khai,
thị sanh đắc cố” (Đáp: Chẳng
đợi hoa nở, vừa sanh đến liền có).
Đúng là có sẵn các tướng ấy khi vừa sanh vào
[hoa sen trong cơi Cực Lạc]. Lúc quư vị ở trong hoa
sen, khi hoa chưa nở, các tướng hảo ấy
đă hoàn toàn trọn đủ. Ở đây, tôi tiết
lộ một tin tức cho quư vị biết: Không chỉ
là ba mươi hai tướng, mà là thân có vô lượng
tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo.
Ba mươi hai tướng là đức Phật nói
phương tiện. Đến thế giới Cực
Lạc, quư vị mới phát hiện sự thù thắng khôn
sánh này, sẽ cảm ơn Thích Ca Mâu Ni Phật. Hôm nay
đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập
tới đây thôi.
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 99
[1] Tân Dịch: Cách dịch kinh theo phong cách của ngài Huyền Trang, đối lập với Cựu Dịch là cách dịch kinh theo phong cách của pháp sư Cưu Ma La Thập. Ngài Huyền Trang chủ trương bám sát nguyên bản, không bỏ bớt chữ nào dù kinh văn rườm rà đến cách mấy. Ngài La Thập chủ trương dịch thoát ư, chỉ gạn lọc lấy ư chính.
[2] Tân Tỳ Bà Sa Luận là bản dịch Tỳ Bà Sa Luận của ngài Huyền Trang, gọi là Tân nhằm phân biệt với bản dịch trước đó của các vị Phù Đà Đạt Ma và Đạo Thái dưới thời Bắc Lương. Bản cựu dịch gồm 100 quyển, nay chỉ c̣n sót lại 60 quyển. Bản dịch của ngài Huyền Trang gồm 200 quyển. Tỳ Bà Sa (Vibhāṣā) có nghĩa là chú giải (c̣n dịch là Quảng Giải, Khái Yếu, Khái Luận, Thắng Thuyết, Quảng Thuyết v.v…). Tên gọi đầy đủ của Tỳ Bà Sa Luận là A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận, như vậy Tỳ Bà Sa Luận chính là tác phẩm nghị luận nhằm giải thích những ư nghĩa chánh yếu trong Luận Tạng. Sách này được viết ra để chú giải bộ Phát Trí Luận (Jñāna-prasthāna) của ngài Ca Chiên Diên Ni Tử thuộc truyền thống Nhất Thiết Hữu Bộ. Theo truyền thống, bộ luận này thường được xem là do các vị Thi Đà Bàn Ni, Đạt Tất và Bễ La Ni hợp soạn.
[3] Tác phẩm này có tên gọi đầy đủ là Tứ Giáo Nghi Chú Vựng Bổ Phụ Hoằng Kư gồm mười quyển. Tác phẩm này thoạt đầu do ngài Đế Quán ghi chép những lời dạy của tổ Trí Giả về giáo nghĩa Tứ Giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên), sau đó được ngài Mông Nhuận chú giải, tỳ-kheo Thanh Tịnh bổ sung thêm những lời giải thích, nên gọi là Phụ Hoằng Kư.
[4] Đây là tên gọi khác của Phật Thuyết Vô Thường Kinh, do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường. Đầu kinh và cuối kinh có bài tán thán Tam Bảo của Mă Minh Bồ Tát, cũng như thuyết minh ư nghĩa kinh. Do vậy, nh́n vào cấu trúc bài kinh này, dường như có ba đoạn, nên gọi là Tam Khải. Theo Nam Hải Kư Quy Truyện, tăng đồ Ấn Độ thuở ấy dùng kinh này làm kinh nhật tụng.
[5] Táp (卅) là ba mươi.
[6] Thường quang là quang minh thường chiếu ra nơi thân Phật. Gọi là Thường Quang để phân biệt với Phóng Quang là quang minh do đức Phật phóng ra khi thọ kư hoặc sắp tuyên giảng đại pháp. Một Trượng là 3,33 m.
[7] Vô kiến đảnh tướng: Chỉ tướng nhục kế trên đảnh đầu Phật. V́ đảnh đầu Phật có thịt dồn lên như h́nh búi tóc, nên gọi là Nhục Kế. Từ nhục kế tỏa ra hào quang vô lượng, ngay cả những vị Thập Địa Bồ Tát chỉ thấy được một phần, ngoài ra không ai thấy được tướng trạng của nhục kế, nên gọi là “vô kiến đảnh tướng”. Trong kinh Bảo Tích có chép ngài Mục Kiền Liên ỷ vào sức thần thông bay lên không trung, vượt qua vô lượng thế giới để nh́n cho rơ đảnh tướng của Phật Thích Ca, nhưng Ngài vẫn không thấy được.